Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2019

NGỤ CƯ, tiểu thuyết của THĂNG SẮC, chương 5,6 và 7.

NGỤ CƯ


Chương 5


          Chiếc xe u-oát của Cục vận động quần chúng Bộ Tư lệnh Bát-tam-bang lắc lư, ậm ạch bò qua hết ổ trâu này đến ổ trâu khác trên đường số 5 nối liền Nông-pênh với Bát-tam-bang, chở trung tá Bùi Khoai về trụ sở Ủy ban tỉnh. Những người ngồi trên xe bị nhồi lên nhồi xuống vì đường xóc. Thỉnh thoảng từ những bụi cây rậm rạp ven đường một anh bộ đội lại chạy ra, một tay cầm súng, một tay giơ lên chặn xe lại, thông báo phía trước có địch phục kích hoặc cần đi vòng để tránh các bãi mìn. Bùi Khoai coi trọng và tuân theo những chỉ dẫn đó, tuy nhiên đối với một sĩ quan mới cách đây 3 năm đã truy lùng địch trong các rừng rậm Pai-lin thì chuyện vượt quãng đường dài gập ghềnh, lầy lội và đầy mìn giữa mùa mưa này, tuy khó khăn và nguy hiểm nhưng là chuyện rất bình thường. Rời Nông Pênh từ tờ mờ sáng đến nhá nhem tối mới đến nơi, Bùi Khoai thích thú thấy trên bàn họp bày sẵn mấy đĩa cam. Cam Bát-tam-bang ngon có tiếng, anh gọt một quả, bóc từng múi bỏ vào miệng, để cho cái vị chua đượm ngọt ngấm dần, thật đã cơn khát.
          Một cuộc họp liên tịch diễn ra nhanh chóng, mọi kế hoạch về nhân sự, phương án tác chiến được nhất trí thông qua. Đoàn công tác của Bùi Khoai sẽ về Cốc-chi-vênh, một xã thuộc Biển Hồ để giúp bộ đội Căm-pu-chia đánh địch và vận động người dân tổ chức cuộc sống mới. Lúc này đang mùa mưa, bọn Khơ-me đỏ ra sức thu gom tàn quân, củng cố lực lượng, luồn sâu vào nội địa chủ yếu là khu vực Biển Hồ, nơi giàu có về sức người sức của để chống phá lâu dài chính quyền mới. Lúc giải tán, người chủ trì cuộc họp tiến đến gần Bùi Khoai, nắm tay anh lắc mạnh.
          - Chào anh, tôi trông anh rất quen. Có đúng là anh đã từng chiến đấu ở Pai-lin ?
          Bùi Khoai chăm chú nhìn đồng chí bí thư tỉnh ủy Căm-pu-chia đang nắm chặt tay mình. Trước mặt anh là một trung niên cao to trong bộ quân phục mầu xám khỏe khoắn, nước da ngăm đen săn chắc, một vết sẹo nhỏ sượt trên mặt, ngay dưới mắt trái chứng tỏ người này đã bị thương. Tuy nhiên Bùi Khoai không nhận được người quen.
          - Vâng, vào mùa khô năm 1983. Lúc ấy truy quét tàn quân Pôn-pốt trong rừng rậm nên tôi không nhận ra đồng chí. Đồng chí là...?
          - Lúc bấy giờ tôi ở sở chỉ huy trung đoàn, cùng phối hợp với bộ đội Việt Nam chỉ huy chiến dịch. Tôi nhớ anh là chỉ huy tiểu đoàn 194, thường lên sở chỉ huy trung đoàn làm việc, trông anh không thay đổi nhiều.
          Bùi Khoai giơ tay lên vuốt tóc mình, quay sang gọi người chỉ huy Căm-pu-chia bằng anh, vui mừng nói :
          - Anh có trí nhớ tuyệt quá, xin rất phục. Tôi già đi rồi, anh không trông thấy tóc bạc đấy à !
          - Chưa già đâu, khối cô còn phải mê mà-Người bạn Cam-pu-chia nói đùa. Nay trở lại Bát-tam-bang anh có thấy gì khác không ?
          - Tôi thấy chính quyền mới còn khó khăn nhưng thuận lợi cũng đã nhiều.
          - Đúng thế. Địch vẫn còn hoạt động mạnh, gây cho ta không ít khó khăn. Chúng đánh phá giao thông, phục kích bắn cháy xe cộ, cướp của giết người, đột nhập vào các phum ấp, làm cho phong trào của ta lắng xuống. Đặc biệt ở Biển Hồ là nơi ngày mai đồng chí sẽ đến, bọn địch hiện đang kiểm soát phần lớn, chúng khống chế người dân, bắt họ phải nộp hải sản, lúa gạo để phục vụ chiến tranh. Một số tay sai của chúng trỗi dậy, tiếp tay cho địch, bóc lột ngư dân, phá rã các cơ sở cách mạng. Đấy, công việc các đồng chí nặng nề lắm.
          - Vâng, tôi có thể hình dung được.
          Vị bí thư Tỉnh ủy xiết chặt tay Bùi Khoai, lắc mạnh :
          - Xuống dưới ấy xa tỉnh, thông tin liên lạc khó khăn, điều kiện vật chất thiếu thốn, các anh cứ thay mặt Tỉnh ủy và Ủy ban quyết định tại chỗ, chúng tôi rất tin tưởng ở các anh. Thôi, bây giờ đã muộn, đi một ngày đường cũng đã mệt, anh về nghỉ đi, sáng mai còn hành quân sớm.
          Bùi Khoai cám ơn người đồng chí Căm-pu-chia, lững thững đi qua cái sân rộng có những cây soài trĩu quả để về phòng ngủ. Bây giờ vào mùa mưa, những cơn mưa chiều trút nước rửa sạch bụi bậm, làm những tán lá soài ánh lên lóng lánh. Đêm nằm trong nhà khách ủy ban có màn tuyn màu rêu, giường cá nhân mới còn thơm mùi gỗ, Bùi Khoai thao thức nghĩ mưa sẽ còn tiếp tục ngày này sang này khác, đổ nước như thác xuống các con sông con suối, nước đục ngầu ở khắp các ngả sẽ như lũ dồn về Biển Hồ. Anh không tài nào nhắm mắt được khi nhớ tới mùi thịt người thối rữa ở hố chôn tập thể, nhớ tới những người lính của mình chui luồn chiến đấu trong rừng rậm, nhớ anh chàng chính trị viên Vũ Văn Vượng đã nằm lỳ ở chốt từ mùa khô đến mùa mưa, đã hy sinh vì sốt rét và kiết lỵ, xương cốt vẫn còn nằm đâu đó giữa chốn rừng núi hoang lạ.
          Sáng hôm sau Bùi Khoai không mặc quân phục, cùng viên sĩ quan liên lạc  cải trang thành những dân thường đi lại để giữ bí mật, tránh con mắt soi mói của địch. Sương sớm vừa tan mà bến sông đã tấp nập người lên xuống, những chiếc thuyền máy và ca nô chen chúc đậu xít vào nhau trên bến nước đục ngầu. Bùi Khoai theo người dẫn đường nhảy từ ca nô này qua ca nô khác, qua mấy chiếc như thế mới đến chiếc thuyền gỗ lớn là điểm hẹn bí mật. Cả đoàn công tác mấy chục người dưới sự chỉ huy của Tham mưu trưởng tỉnh đội đã tập kết ở đây, súng đạn trang bị đầy đủ. Nhìn lên bến có mấy người xe ôm mặc đồ đen đứng nghiêng ngó, Tham mưu trưởng nói :
          - Tôi nghi mấy thằng xe ôm kia dám là trinh sát của địch lắm. Nó phát hiện được mình thế nào cũng báo đồng bọn phục kích đánh ta. Đề nghị các đồng chí hết sức cảnh giác.
          Chiếc thuyền bắt đầu nổ máy khi trời bất thình lình đổ mưa, tiếng máy nổ rần rật đẩy thuyền nhích dần ra rồi rẽ sóng đi băng băng. Sau những cơn mưa như đổ nước, Biển Hồ đục ngầu ngập mênh mông, từng đám bèo tây và cỏ rác bập bềnh trôi nổi theo dòng nước xoáy. Trên thuyền tham mưu trưởng ra đứng ở mũi, khẩu súng AK trong áo mưa trồi lên trên vai. Cầm ống nhòm theo dõi 4 chung quanh, anh ta không ngừng lấy tay gạt nước mưa trên mặt. Bùi Khoai đi đến, vỗ vai anh ta hỏi :
          - Đồng chí có biết bao lâu thì đến nơi ?
          Anh này quay lại nhoẻn cười, lộ ra chiếc răng vàng sáng chóe :
          - Báo cáo thủ trưởng chỉ 2 tiếng là đến nơi thôi mà.
          Quả nhiên 2 tiếng sau chiếc thuyền máy to kềnh càng giảm tốc độ rồi táp vào bến. Vừa lúc mưa tạnh, cũng đột ngột như lúc bắt đầu mưa. Mặt trời lại chói chang sáng lóa trên mặt nước. Trên bờ, chính quyền xã đã huy động hơn chục người dân ra đón, tay cầm cờ Căm-pu-chia và Việt Nam vẫy chào. Miệng cười tươi, Bùi Khoai cũng giơ tay vẫy chào lại họ.
          Cốc-chi-vênh là một xóm biển xầm uất và mầu mỡ, trên bờ có hàng trăm nóc nhà, dưới bến lúc nào cũng xít xát đậu hàng trăm thuyền máy với ca nô. Người dân Cốc-chi-vênh chủ yếu sống bằng nghề đánh cá, gió ở đây bao giờ cũng  nồng tanh mùi cá khô mặn. Ban chỉ huy đoàn công tác đóng trên một chiếc thuyền máy to, chủ thuyền là một phụ nữ Căm-pu-chia còn trẻ, đầu chít chiếc khăn rằn sọc đỏ, nước da xạm đen như được hun từ nắng gió Biển Hồ. Chị này được giao phục vụ cơm nước cho ban chỉ huy nên suốt cả ngày tất bật, huỳnh huỵch nhảy từ thuyền này qua thuyền khác. Anh tham mưu trưởng ngồi ở mũi thuyền để mắt thấy bộ ngực nở nang của chị rung lên dưới lớp áo đen mỏng nên thả lời trêu đùa :
          - Xòm An à, nhiều thịt thế không khao bộ đội, toàn cho ăn đầu cá !
          Xòm An là một cô gái thật thà nên phải một lúc sau mới hiểu câu nói bông lơn, cô lấy ống tay áo lau mồ hôi trên trán, mắt liếc nhìn anh bộ đội, miệng cười đôn hậu, nắng soi hàm răng sáng lóa. Thực ra món đầu cá nấu canh chua của Xòm An rất ngon. Đầu cá to nấu với quả chuồm ruộp cho bát canh chua mát ngọt, những ngày nắng nóng có bát canh này ăn thật đã. Anh tham mưu trưởng thường vớt đầu cá ra một cái đĩa men to, không quên mấy quả ớt vẫn còn xanh, rót rượu đầy chén đưa Bui Khoai. “Ngon quá, thủ trưởng làm chén”- anh này nói.
          - Có mấy cái đầu cá mà làm tốn của các cậu chai rượu 1 lít !-Bùi Khoai nói, giơ tay đỡ chén rượu. Anh rất thích húp một bát nước canh chua trước bữa nhưng gần như ngày nào cũng món đầu cá nấu  nên anh mới hỏi :
          - Xòm An ơi, cá đi đâu hết mà bộ đội toàn ăn đầu cá thôi ?
          Cô gái không dừng tay đánh nồi cơm đang bốc hơi, trả lời :
          - Cá người ta đem phơi khô hết rồi. Đầu cá cũng ngon cũng bổ mà.
          Công việc trọng tâm của Bùi Khoai là phối hợp cùng lãnh đạo địa phương tổ chức bà con xây dựng chính quyền mới vững chắc, tổ chức dân quân cùng bộ đội ngăn chặn không cho địch xâm nhập, bảo vệ việc đánh bắt cá được an toàn. Thấy Xòm An rất năng nổ nhiệt tình nấu cơm phục vụ bộ đội, Bùi Khoai động viên cô tham gia hội phụ nữ sản xuất và diệt địch.
          - Em nấu cơm được chứ không làm được hội phụ nữ đâu. Còn chưa biết bắn súng mà.
          - Để anh dạy cho, ưng không ? -Anh tham mưu trưởng nhanh nhảu như sợ bị tranh mất phần khi nghĩ đến những động tác kề vai, áp má, bóp cò. Tuy nói vậy nhưng trong lòng Xòm An đã muốn tham gia. Tối tối sau khi thu dọn xong bữa cơm chiều, cô lại cùng bộ đội đi đến từng thuyền thăm hỏi, vận động bà con. Thấy lực lượng của ta mạnh, lại có bộ đội tình nguyện đóng gần nên bà con dần dần bớt sợ lính Pốt, lấy lại niềm tin, vạch mặt bọn phản động tay sai. Ngày qua ngày cuộc sống vui tươi trở lại, người dân phấn khởi hồ hởi ra khơi đánh bắt cá. Xòm An lấy một lá cờ Căm-pu-chia khá lớn đem treo lên thuyền, những thuyền khác làm theo, cờ phấp phới tung bay trên mặt nước biển. Bùi Khoai đứng nhìn những chiếc thuyền cắm cờ sáng sáng ra khơi dưới ánh nắng mặt trời mà lòng tràn đầy phấn khởi trước những kết quả nhanh chóng của cuộc vận động.
          Một buổi sáng, lúc Bùi Khoai đang họp bà con để sơ kết bước một cuộc vận động thì bỗng nghe tiếng súng giao chiến dữ dội phía thượng nguồn sông Săng-kê, cách Cốc-chi-vênh chừng 3 cây số. Ngay sau đó một chiếc thuyền máy con áp sát vào, anh trinh sát đeo dây đu lên, giơ tay chào mọi người.
          - Báo cáo thủ trưởng-Anh trinh sát vừa thở hổn hển vừa nói, hiện có chừng hơn một trăm tên Pôn Pốt đi thuyền từ Xiêm Riệp cắt sông Săng-kê để về căn cứ của chúng. Bộ đội ta đang đánh chặn, ngăn không cho chúng tiến vào làng.
          Thấy tiếng súng nổ ngày một dữ dội, Bùi Khoai lập tức cho bà con giải tán, ai về nhà nấy tìm chỗ ẩn náu khi cần. Trao đổi với Tham mưu trưởng tỉnh đội và lãnh đạo địa phương, Bùi Khoai nhận định bọn địch trở về Biển Hồ chắc chắn là để chống phá phong trào cách mạng đang lên ở Cốc-chi-vênh, đề nghị các bộ phận tổ chức phòng thủ cho tốt, sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt địch khi chúng tập kích. Nhận định của Bùi Khoai không sai. Ngay buổi tối bọn địch đã nã B40 vào vị trí có bộ đội Căm-pu-chia đóng quân, súng đạn trong kho nổ rền vang, 8 chiến sĩ bạn bị thương, 1 hy sinh. Bọn chúng ngồi trên thuyền máy chà đi sát lại, xả đạn vô tội vạ vào bến thuyền của người dân, có chiếc ca-nô bị bốc cháy, lửa đỏ rực một góc biển. Bùi Khoai không thể ngồi yên nghe tiếng súng qua lại. Máu chiến đấu của người chỉ huy cuộn lên, anh xách khẩu AK của tham mưu trưởng cùng đội chiến đấu của đoàn công tác nhảy lên chiếc xuồng máy lao ra truy kích địch. Vừa nhảy sang thuyền máy, Bùi Khoai thấy có người khác nhảy theo, nhìn lại hóa ra là cô Xòm An, vai đeo túi cứu thương, đầu vẫn chít chiếc khăn rằn. Bùi Khoai ấn cô gái ngồi thấp xuống, nép mình vào mạn thuyền, còn anh  đứng thẳng, dương súng nhả đạn liên tục về phía địch. Vừa bấm từng 2 phát một Bùi Khoai vừa hét :
          - Tăng tốc lên, phóng nhanh nữa vào.
          Chiêc thuyền rồ lên, đè sóng lao tới. Bùi Khoai lệnh cho bộ đội ta và bạn tổ chức thành hai mũi đánh vu hồi, quyết đuổi địch ra khỏi Cốc-chi-vênh. Trong đêm, đạn bắn qua lại thành những đường lửa đỏ đan chéo nhau, đạn rơi xuống nước lụp bụp bốn chung quanh thuyền như có người ném đá. Đang cơn hăng máu bỗng  Bùi Khoai thấy đau nhói, hẫng hụt dưới chân. Anh ta chới với đánh rơi khẩu súng xuống thuyền, ngã vật ra như một cây chuối bị phạt gốc. Trong lửa đạn bập bùng, Bùi Khoai lơ mơ thấy cô gái nhặt khẩu súng lên và nghe tiếng ai hỏi “thủ trưởng có làm sao không”. Lại thấy có một chiếc thuyền chèo tay vun vút lao về phía mình. Rồi anh choáng váng ngất lịm đi.
          Khi tỉnh lại, Bùi Khoai muốn nhấc chân lên mà không nhấc nổi. Anh gắng gượng ngẩng đầu nhìn xuống thấy chân phải đã bị băng bó cứng ngắc. Thế là anh biết mình đã bị thương. Nặng. Mà không biết có cụt chân không. Một lần nữa Bùi Khoai muốn thử, cố nhấc chân. Thất bại. Bùi Khoai thở dài, buồn bã nghĩ, có thể sẽ bị cưa chân. Tuy là người chỉ huy luôn có tinh thần lạc quan trong chiến đấu, tuy anh nghĩ nếu có cưa chân thì cũng vẫn là chưa chết, được sống là một may mắn lớn lắm rồi nhưng Bùi Khoai vẫn không thể không tự hỏi rồi sẽ sống như thế nào đây. Anh nhớ lại hình ảnh mấy thương binh chống nạng ở sân bay Pô-chen-tông hồi đi nhờ máy bay về nước dự lớp huấn luyện. Chắc rồi cũng phải chống nạng như người ta, không thể đi lại bình thường, sẽ bước đi những bước tập tễnh, mất thăng bằng. Sẽ không thể đạp xe đạp đèo con bé Hoàng Thu đi học trên đường làng, không thể giúp vợ tát nước vào ruộng lúa 5%. Rồi cái mơ ước đẻ thêm một đứa con trai vẫn được anh kín đáo ấp ủ, mỗi khi phải thổ lộ ra anh đều thấy ngượng ngập, nay cái mơ ước ấy có lẽ sẽ bị ảnh hưởng. Nhưng Bùi Khoai nghĩ, điều đau đớn nhất là trước mắt anh không còn có thể chỉ huy chiến đấu, là chắc chắn sẽ phải rời xa đơn vị mà anh những tưởng sẽ gắn bó với nó suốt cả cuộc đời. Rời xa đơn vị, không chỉ huy chiến đấu rồi anh làm gì, sẽ có thể làm gì !  Ý nghĩ này làm nhịp tim anh tăng lên rất nhanh, anh thấy như có một bàn tay thò vào thô bạo bóp chặt nó trong ngực.
          Bốn bề yên tĩnh, không bóng một ai chung quanh nhưng nghe tiếng sóng vỗ róc rách và thấy người đong đưa nhẹ thì anh biết mình đang nằm trên một con thuyền nhỏ. Liếc nhìn về phía đuôi thuyền thấy một cái lồng chim treo ở mui. Con chim cu lông màu xám có một khoanh trắng như chiếc khăn trắng nhỏ quàng quanh cổ nhảy lách tách trong chuồng. Con chim bỗng thôi nhảy, xù lông cổ kêu crừ crừ rồi ngẩng lên gáy cúc cù cu cu cu. Bùi Khoai thầm ước có thể đứng lên, chạy ra nhìn con chim, đưa tay đụng vào mỏ nó. Nhưng lúc này cơ thể như đang bị ghì chặt xuống ván thuyền, miệng khô đắng. Anh thều thào gọi :
          - Có ai không, cho miếng nước.
          Tiếng bước chân từ mũi thuyền đi vào. Bùi Khoai mở to mắt gắng nhìn, co người lại cảnh giác. Đấy chỉ là một phản ứng tự vệ bản năng chứ không có tác dụng gì, nếu bây giờ có một tên Pôn Pốt cầm dao nhọn dí vào cổ thì anh cũng chịu. Toàn bộ phần dưới cơ thể từ thắt lưng trở xuống đã như bị buộc vào đá tảng, nặng chịch, đau buốt trước mỗi ý định cử động. Anh nhìn thấy một người mặc bộ đồ bà ba đen, một chiếc khăn rằn sọc trắng vắt vai, tóc tai bờm xờm vì đã lâu ngày không được cắt tỉa, quần xắn đến đầu gối như vừa đi lội ruộng, thực tình trông cũng gày còm chẳng khác tên lính Pôn Pốt là mấy. Khi người này đến gần và cúi xuống, Bùi Khoai thấy rõ hai gò má xương xẩu nổi gồ lên trên một khuôn mặt vuông, sống mũi tẹt xuống với 2 lỗ mũi đầy lông, đôi môi dầy, khô, thâm sì màu thuốc lào, da mặt đen bóng. Bùi Khoai thu hết tinh thần, sức lực và ý chí của người lính vào ánh mắt, nhìn anh ta chằm chằm :
          - Nước, cho miếng nước.
          Trước cái nhìn sắc lạnh, người này khựng lại rồi lặng lẽ rót từ trong chiếc siêu nhôm đen kịt bồ hóng ra cái bát mẻ miệng một bát nước lá rừng màu đỏ, lặng lẽ nâng đầu Bùi Khoai lên rồi đặt bát nước vào miệng anh. Nuốt miếng nước đến đâu Bui Khoai thấy mát rợi đến đó. Uống xong bát nước, anh hỏi :
          - Tôi đang ở đâu, ông là ai ?
          - Ót chay Việt Nam.
          Bùi Khoai thấy khó chịu khi anh này trả lời bằng tiếng Khơ me, ý là không biết tiếng Việt Nam trong khi Bùi Khoai hỏi bằng tiếng Việt. Anh này nhẹ nhàng đặt Bùi Khoai nằm trở lại. Bùi Khoai lại hỏi :
          - Tôi là bộ đội Việt Nam, bị thương khi đuổi đánh Pôn Pốt, sao bây giờ lại nằm ở đây ?
          Nét mặt người đàn ông dãn ra, mắt ánh lên như muốn nói điều gì, xong anh ta im lặng đứng lên đi ra bếp, lúi húi nấu nướng thứ gì đó. Một lúc sau anh ta bê vào một bát canh nóng, hiền lành nhìn Bùi Khoai :
          - Con tóp nhăm xòm lo cờ cô.
          Nói rồi lại đỡ người Bùi Khoai lên. Bát canh nóng tỏa mùi thơm ngọt kích thích cái dạ dày dễ chừng từ hôm qua chưa có chút gì. Bùi Khoai đã biết món xòm lo cờ cô là món canh dân dã của người Khơ-me, thường có quả mít non băm nhỏ nấu với thịt lợn, thịt cá lóc cùng nhiều gia vị khác,  nhất là phải nêm  mắm pro-hóc, hơi khó ngửi nhưng không thể thiếu được. Bùi Khoai cầm thìa, múc ăn ngon lành. Tuy bát canh nặng mùi cá tanh và mắm pro-hóc nhưng ăn xong anh thấy ấm bụng, tỉnh táo trở lại. Bùi Khoai lấy ống tay lau miệng rồi hỏi :
          - Cảm ơn. Ông là người Việt phải không ?
          Người đàn ông khẽ gật đầu.
          - Tại sao ông không nói tiếng Việt ?
          Lúc này anh ta mới dè dặt trả lời, giọng Nam Bộ :
          - Vì sợ. Pốt trở về biết mình người Việt, bảo mình là Duôn rồi đập chết ngay.
          - Ra thế, sợ Pốt nên phải giấu kín tung tích. Tụi chúng nó vừa bị đánh đuổi hết vào trong rừng rồi.
          - Biết. Bộ đội Việt Nam biết tôi chỉ có một mình nên gửi chỉ huy cho tôi trông nom, gửi thuốc cho chỉ huy uống. Họ đang đuổi Pốt vào tận rừng.
          Người này đứng lên với tay lấy ra từ mui thuyền một gói ni lông nhỏ đưa Bùi Khoai. Anh giở ra xem thấy trong đó có ít thuốc kháng sinh với chỉ dẫn của quân y nói anh phải uống trong 5 ngày. Bùi Khoai thở dài buồn bã, đáng nhẽ phải chính là anh đang dẫn quân truy đuổi bọn tàn quân. Nằm yên đây ăn xòm lo cờ cô trong lúc đồng đội đang lặn lội vượt biển luồn rừng đánh địch thì làm sao anh chịu nổi. Nhưng rồi Bùi Khoai lại nghĩ cứ yên phận nằm đây mà dưỡng thương, không làm phiền cho đồng đội lúc này cũng là tốt lắm rồi. Nghĩ như thế anh thấy đôi chút phấn chấn trở lại. Bùi Khoai quay sang hỏi chuyện người chủ thuyền.
          - Tôi tên là Khoai. Ông tên là gì ?
          - Thưa chỉ huy tôi tên là Hải.
          Bùi Khoai xua tay :
          - Ông Hải đừng gọi tôi là chỉ huy. Tôi chỉ huy bộ đội chứ có chỉ huy ông đâu. Ông bao nhiêu tuổi rồi ?
          - Dạ, thưa chỉ huy, tôi không nhớ mình bao nhiêu. Ước chừng năm chục gì đó. Trôi nổi khổ cực quá quên cả tuổi.
          - Quê ông Hải ở đâu ?
          - Tôi người An Thới, tỉnh An Giang.
          - Làm sao mà trôi dạt lên tận đây ?
          - Lên từ 1981, cứ nghĩ làm cá ra vàng, nào ngờ giờ này muốn về cũng không góp đủ số tiền mà về được nữa. Chắc chết ở đây quá à.
          - Người mình ở đây có nhiều không ?
          Ông Hải chỉ một vòng ra chung quanh :
          - Cả xóm chài này toàn người Việt.
          Nói rồi ông Hải đứng lên lấy mấy hạt đỗ xanh cho con chim cu. Nó xù lông vui mừng mổ lấy mổ để những hạt đỗ nhỏ, đôi mắt nó long lanh đẹp như hai hạt cườm đính vào cái đầu tròn trịa. Ông Hải lom khom đứng ngắm con chim, thỉnh thoảng lại luồn hai ngón tay qua lồng vuốt vuốt lên lưng nó đầy âu yếm. Để im một lúc, con chim lại kêu crừ crừ rồi ngẩng cổ gáy cúc cù cu cu cu cu. Ông Hải khoái chí đứng nghe, đưa tay lên xuống đếm từng tiếng cúc cu, mặt ông ngời lên một niềm vui mà Bùi Khoai chưa từng thấy. Vừa dứt tiếng gáy, ông Hải nhanh nhẹn quay lại bên Bùi Khoai, vừa nói vừa chỉ tay về con chim, giọng vẫn còn tràn ngập niềm vui.
          - Chỉ huy nghe thấy không, con chim cu của tôi nó gáy bộ ngũ đấy, 5 tiếng liền nhịp. Hiếm lắm, không có đâu. Là chúa tể rồi đó, những con gáy bộ tam bộ tứ mà nghe nó gáy 5 tiếng liền như thế là xếp cánh đứng im re, đâu còn dám gáy nữa.
          - Ờ, ngày còn đi học ở làng tôi cũng có một con nhưng nó còn non, chỉ gáy được cúc cu cu 3 tiếng.
          - Nuôi lâu, chăm cho nó, nó gáy 5 tiếng.
          - Chú em tôi lúc ấy còn bé nghịch quá, mở cửa lồng cho nó ăn cào cào, nó bay ra mất.
          - Chỉ huy có em ? Cũng bộ đội à ?
          - Không, bây giờ chú ấy đang ở Tiệp Khắc.
          Tiếng chim cu mơ màng đưa Bùi Khoai trở lại một miền dĩ vãng xa vắng, ở đấy loáng thoáng hình ảnh người em gày đen xị mặt chịu một cái bạt tai. Tuy nhiên anh vội vã xua đuổi ngay những xao động trong lòng, dù mới chỉ lăn tăn như những đợt sóng nhỏ, gạt đi những tình cảm nhớ nhung mà anh gọi là ủy mị để cho mình cứng rắn trở lại. Anh cố dướn người nhìn ra chung quanh, thấy mình đang nằm giữa một xóm chài có hàng chục chiếc thuyền con. Trên chiếc thuyền sát bên, một người đàn bà đen đúa và lam lũ đang vạch vú cho con bú, đứa trẻ ra sức nhay mút chiếc vú nhẽo nhợt. Ở thuyền liền đó, một đứa trẻ trần truồng nằm cong queo phơi bụng ngủ thản nhiên. Nhìn quanh như vậy Bùi Khoai biết không còn phải lo về chuyện an toàn nữa. Chung quanh toàn đồng bào mình. Nhưng họ khổ quá.
          Ông Hải thường lân la ngồi cạnh Bùi Khoai, vừa quạt mát cho anh vừa nói chuyện. Có vẻ như việc Bùi Khoai được gửi nằm lại thuyền để dưỡng thương cũng đem đến cho ông một chút niềm vui nào đó, an ủi ông nỗi nhớ quê luôn day dứt trong lòng. Như phần đông những người Việt chung quanh, ông đã bỏ xứ với hy vọng kiếm được nhiều tiền, lúc đó nghe đồn cá biển Hồ nhiều lắm, đánh bắt dễ như không. Lên rồi mới ngã ngửa mọi chuyện đâu có ngon như vậy, ngày ngày giăng lưới buộc câu mà cá mỗi ngày một kém, đêm vừa ngủ vừa nơm nớp sợ tàn quân Pôn Pốt trở về tập kích cướp bóc, giết chóc. Trong lòng trào dâng niềm cảm thương đối với ông già người Việt, lại rất cảm động về những cử chỉ chăm sóc tận tình của ông, Bùi Khoai hỏi :
          - Giờ muốn về quê thì phải làm sao ?
          - Phải có tiền chớ sao nữa. Biết kiếp nào mới kiếm đủ chục triệu đồng.
          Bùi Khoai với ra nắm lấy tay ông Hải.
          - Về quê bây giờ thì làm gì sống ?
          - Làm gì mà chả sống được. Giờ đang mùa nước nổi, cắm trà vớt cá linh một vụ sống quanh năm.
          Bùi Khoai bóp chặt tay ông Hải :
          - Khi nào chữa lành vết thương, trở lại đơn vị tôi sẽ gửi biếu ông một chục triệu đồng để ông có tiền về thăm quê.
          Ông Hải chép miệng, nở một nụ cười vui giống như khi nghe tiếng cúc cù cu của con chim cu.
          - Bộ đội khỏi bịnh rồi đi, biết tôi ở đâu mà gởi tiền.
          Liều kháng sinh tỏ ra không có hiệu quả, vết thương của Bùi Khoai không lành mà còn sưng tấy đỏ, mủ trắng chảy ra đau đớn. Anh liên tục sốt cao, lúc mê lúc tỉnh, người xọp hẳn. Mỗi khi hít phải mùi mắm prô-hoc bốc lên từ bát xòm lo cờ cô ông Hải bưng lên là anh buồn nôn, miệng đắng ngắt. Buổi sáng ngày thứ tư, ông Hải đỡ Bùi Khoai dậy, bón cháo cho anh như thường lệ. Tuy rất mệt và đau nhưng anh hết sức ngạc nhiên nhận ra món cháo có vị ngọt khác hẳn. Anh ngậm miếng cháo, biết cháo có thịt ninh nhừ nên hỏi ông Hải :
          - Lấy thịt đâu ra mà nấu cháo bón cho tôi ?
          Ông Hải không trả lời, lặng lẽ bón cho Bùi Khoai hết bát cháo rồi đứng lên. Bùi Khoai nhìn theo ông đi về phía đuôi thuyền, bóng ông nghiêng nghiêng che khuất cả một khoảng nắng sớm. Bùi Khoai bất chợt nhận thấy con chim cu không còn trong lồng nữa. Chiếc cửa lồng con con bằng bàn tay mở toang, mấy chiếc lông chim còn dính lại trên nan lồng. Bùi Khoai hiểu vỡ ra, những giọt nước mắt cực hiếm trong đời người lính long lanh chảy dài trên đôi má gày hóp. Anh muốn gọi to ông Hải, muôn ôm lấy ông nhưng không thể, đành cứ để ông đứng  một mình lặng im phía đuôi thuyền. Vắng tiếng chim cúc cu, vắng tiếng lách tách chim nhảy trong lồng, tất cả đều im ắng quá. Lặng im một chốc rồi ông Hải quả quyết quay vào nói với Bùi Khoai :
          - Bộ đội sốt lâu thế này không tốt. Hôm nay tôi vô rừng kiếm lá thuốc về nấu cho bộ đội uống, vừa khỏi sốt, vừa đỡ sưng chân. Tôi biết trong rừng có loại lá thuốc này.
          Với phản ứng của người chỉ huy đã dày dạn kinh nghiệm, Bùi Khoai nắm tay ông Hải kéo lại, thều thào nói :
          - Ông đừng đi. Vào rừng bây giờ thế nào cũng đụng Pôn Pốt. Chúng không tha ông đâu.
          Ông Hải gỡ tay Bùi Khoai ra, nói :
          - Tôi được giao trông nom bộ đội, nhìn bộ đội thế này đâu có đành lòng. Tôi biết cách tránh lũ quỷ ấy, bộ đội đừng lo.
          - Có xa không, bao giờ ông về ?
          - Không xa. Chỉ giữa chiều tôi về. Bộ đội cứ nằm nghỉ đi.
          Nói rồi ông Hải bụm tay gọi thằng bé thuyền bên sang ngồi với Bùi Khoai, dặn nó phải ngồi canh bộ đội thay ông. Ông Hải với tay lấy con dao rựa, đứng lên xốc quần nhảy xuống chiếc thuyền con bơi đi. Bùi Khoai nằm nghe thấy tiếng mái chèo khua ộp oạp. Thằng bé ngồi cạnh không dám rời đi đâu nửa bước, đến trưa đói nó bảo bộ đội cho nó về ăn cơm rồi lại sang ngay.
          - Cháu ăn cơm có gì ?-Bùi Khoai hỏi.
          - Có cá mặn-Thằng bé vô tư trả lời trống không.
          - Sao cháu không đi học ?
          - Một buổi học phải đóng 100 riên, không lấy đâu ra tiền. Cả xóm mỗi một thằng Long sẹo được đi học thôi. 
          Bùi Khoai thở dài buồn rầu. Anh nằm im, vểnh tai đợi tiếng mái chèo của ông Hải.  Ngày ở rừng Bùi Khoai cũng biết có những loại lá thuốc rất tốt, bộ đội bị thương nhẹ nhai mấy lá đắp ngay vào vết thương là có thể giữ  không bị nhiễm trùng. Nếu ông Hải đem về đúng loại lá này, Bùi Khoai sẽ bảo ông nấu lên lấy nước rửa vết thương cho anh. Bùi Khoai muốn thay đổi tư thế, chống tay cố gắng co chân nhưng thất bại, vết thương làm anh nhức buốt lên tận óc. Đổ vật xuống, khắp người vã mồ hôi, Bùi Khoai bất lực nghĩ nếu có chết ở đây thì cũng được chết giữa lòng đồng bào mình cho dù họ đang là một đồng bào nghèo hèn và sợ sệt, chết như thế còn may mắn chán so với những người đã chết và nằm lại giữa rừng.
          Vậy mà đợi mãi không thấy động tĩnh. Càng đợi ruột gan càng nóng rẫy, càng lặng im. Chiều đến, mặt trời lặn dần xuống biển, nước biển đục ngầu màu hoàng hôn. Bùi Khoai nằm không yên nhưng cũng không thể cựa quậy. Có lẽ nào ông Hải đã đụng phải bọn Pôn Pốt. Người dân ra đánh cá gặp phải chúng là chuyện thường, nhưng thuyền của họ gắn máy, họ chạy được. Ông Hải chèo chiếc thuyền con, chúng chỉ cần rồ máy chạy vòng quanh thuyền ông cũng bị lật úp. Bùi Khoai hít vào thật sâu rồi từ từ thở ra, cố nén nỗi chờ mong. Bỗng thằng bé reo lên :
          - Ổng dìa !
          Bùi Khoai thở phào khi nghe có tiếng mái chèo khua nước. Ông Hải một tay ôm bó lá, một tay bám vào thuyền đu người lên. Vứt nắm lá xuống sàn, ông lảo đảo ngồi phịch xuống cạnh Bùi Khoai. Anh hốt hoảng vươn người nhìn nhưng không thấy ông bị thương. Bùi Khoai hỏi, giọng đã lạc đi :
          - Ông bị bắn hay bị cảm ?
          Ông Hải ngọng ngịu khó nhọc nói :
          - Gắn cắm !
          Liền ngay đó mặt ông Hải tái nhợt, hàm răng cứng lại không há miệng nói được nữa, hai tay run bắn quờ quạng tìm nắm chặt, bám giữ lấy bàn tay Bùi Khoai. Bùi Khoai hoảng hốt la lớn :
          - Ông Hải nguy rồi, có ai không.
          Vừa ngay lúc ấy có tiếng xuồng máy sáp vào. Một tốp bộ đội nhảy lên thuyền để đưa Bùi Khoai về bệnh viện tỉnh. Bùi Khoai chỉ ông Hải lúc ấy đang nôn ra cả đờm rãi lẫn máu, ra lệnh :
          - Sơ cứu cho ông này rồi đưa cả về bệnh viện với tôi. Ông ấy bị rắn cắn. Làm lẹ lên.
          Một anh y tá nhanh nhẹn lấy ống nghe trong túi cứu thương ra đo huyết áp và nghe tim phổi cho ông Hải. Gỡ ống nghe khỏi tai, anh ta lấy hai ngón tay bành mắt người bị nạn ra nhìn rồi nâng tay lên khám kỹ vết cắn ở ngay lòng bàn tay. Bùi Khoai nôn nóng hỏi :
          - Thế nào, có xấu lắm không ?
          Anh y tá nhìn Bùi Khoai lắc đầu :
          - Báo cáo thủ trưởng, bệnh nhân khó thở, huyết áp thấp, tim đập rất nhanh, mắt đã dãn đồng tử. Tay phải nạn nhân đã phù nề, nặng nhất ở vết cắn. Chắc rắn cắn lúc ông ấy chặt lá thuốc.
          - Vậy phải làm thế nào chứ. Cậu phải cứu bằng được ông ấy.-Bùi Khoai quát lên, thảm thiết và bất lực. Anh y tá vội vàng lấy bộ đồ tiêm và một ống huyết thanh kháng độc, vạch bắp tay ông Hải, ấn nhẹ mũi kim tiêm. Nhưng đã muộn. Ông Hải  bật người lên 2 lần, giẫy giụa rồi tắt thở, cơ thể nhanh chóng cứng đuỗn. Chết thâm tím ngay trước mặt Bùi Khoai. Và trước sự bất lực của mọi người. Bùi Khoai nấc lên đau đớn. Anh ra lệnh cho mấy chiến sĩ của mình :
          - Không cần đưa tôi đi vội. Các đồng chí bàn với địa phương, lo mai táng cho ông ấy cẩn thận xong  rồi mới lên đường.
          Đang là mùa nước nổi, do nước đục mênh mông ngập rừng nên  người ta không tìm ra đất đào huyệt. Ông Hải được đút vào một cái túi ni lông bó xác màu cỏ úa của bộ đội rồi đem treo lên cây theo lệ cũ ở đây, đợi bao giờ nước xuống, tìm được đất mới đem chôn. Khi người ta chuyền cái túi bó xác cứng đơ ngang qua ngay trước mặt, Bùi Khoai bỗng lạnh gáy rùng mình. Đây là lần đầu trong đời bộ đội anh ta thấy rùng mình, lòng đau buốt nghĩ đến lũ chuột khủng và lũ kỳ đà khổng lồ ăn thịt người ở hố chôn tập thể trong rừng Pai-lin. Hôm sau, khi bộ đội cáng anh xuống thuyền, Bùi Khoai không quên ôm theo bó lá thuốc. Một anh chiến sĩ va đầu vào chiếc lồng chim, chiếc lồng không như một quả lắc đồng hồ vĩ đại và trống rỗng lắc lư rối loạn trước mặt Bùi Khoai.


         Chương 6


          Quản đốc phân xưởng Pa-ven Ka-đê-ra-bếc trong bộ quần áo bảo hộ lao động mầu xanh lấm lem dầu mỡ chạy khắp nơi tìm gặp Bùi Khoái. Pa-ven Ka-đê-ra-bếc vẫn biết tìm gặp anh chàng đội trưởng người Việt Nam này không phải lúc nào cũng dễ. Anh  này đang ở khu máy tiện, thoắt cái đã chạy sang khu máy phay, rồi chỉ  loáng sau đã biến đi đâu mất. Thường thì việc ai người ấy làm, cuối tuần gặp nhau trao đổi một chút là được, nhưng hôm nay Pa-ven có nhiệm vụ phổ biến cho Bùi Khoái một tin quan trọng, đó là việc hợp đồng lao động của hơn 50 công nhân Việt Nam, trong đó có Bùi Khoái, sẽ chấm dứt vào ngày 30 tháng 9. Đang nhớn nhác hỏi thăm thì Pa-ven chợt trông thấy Bùi Khoái đứng ở cổng với một nữ công nhân người Tiệp đầu chít khăn xanh, chạy đến gần nhận ra đó là Li-mô-va, cô thợ tiện xinh đẹp. Pa-ven thầm ghen tị với anh chàng Việt Nam đào hoa đã có bao nhiêu cô công nhân Việt Nam trong nhà máy mà vẫn còn cưa cẩm được cô gái tóc vàng này. Pa-ven gọi to :
          - Bùi Khoái  đừng tán gái nữa, hãy đi vào phòng tôi một chút.
          Bùi Khoái chào Li-mô-va, không quên thơm nhẹ lên má cô gái rồi đi theo Pa-ven về phòng làm việc của ông. Giữa Pa-ven Ka-đê-ra-bếc và Bùi Khoái không chỉ là quan hệ của một người là thủ trưởng một người là công nhân làm thuê. Ông quản đốc phân xưởng trưởng thành lên từ người thợ, là đảng viên cộng sản kỳ cựu trong nhà máy, có tuổi đời chỉ hơn Bùi Khoái vài năm nên rất tôn trọng anh chàng kỹ sư Việt Nam. Trong suốt 6 năm qua làm việc, tuy không trực tiếp đứng máy nhưng với kiến thức của mình về vật liệu, không phải ít lần Bùi Khoái đã đưa ra những nhận xét kỹ thuật cho Pa-ven Ka-đê-ra-bếc. Ông này đánh giá tốt những ý kiến của Bùi Khoái, rất hài lòng về tinh thần làm việc cần mẫn của số công nhân Việt Nam dưới sự quản lý trực tiếp của người đội trưởng kỹ sư này. Về phần mình, Bùi Khoái yêu quý Pa-ven còn bởi vì ông quản đốc không thật khắt khe về giờ giấc, nhờ thế Bùi Khoái có thể vắng mặt để đi săn hàng một cách dễ dàng.
          Bùi Khoái thả mình vào chiếc ghế xô-pha bọc nhung  anh vẫn ngồi thoải mái mỗi khi đến làm việc ở đây, tiện tay cầm tờ nhật báo Rút-đê Pra-vô là tờ báo của Đảng cộng sản  để trên bàn, liếc nhìn thấy một bài viết về sinh viên Pra-ha kêu gọi biểu tình.
          Bùi Khoái cười hơ hớ rồi hỏi :
          - Anh Pa-ven gọi tôi có việc gì, không phải để huy động  tôi đi biểu tình với đám sinh viên chứ ?
          - Ồ không, sao có thể như thế được. Biểu tình là việc của sinh viên, còn tôi với anh, ta làm việc khác. Tôi mời anh lên đây là để phổ biến một tin quan trọng, đối với tôi là rất quan trọng nhưng không vui.
          Bùi Khoái vẫn cười hơ hớ, thoải mái hỏi :
          - Tôi biết rồi, về việc hết hạn hợp đồng chứ gì ?
          - Đúng thế. Nhà máy sẽ chấm dứt hợp đồng với hơn 50 người, trong đó có anh. Anh không thấy việc này là tất nhiên nhưng rất không vui sao ! Tôi không nói là buồn nhưng chúng ta sẽ phải chia tay nhau sau từng đấy năm trời cùng hợp tác.
          Nghe Pa-ven Ka-đê-ra-bếc nói như thế, Bùi Khoái bỗng thần người, thấy có cái gì hẫng trong lòng. Vào cuối năm 1987, sau khi chấm dứt hợp đồng 4 năm, Bùi Khoái đã xin kéo dài đến 1989. Mới đấy mà 2 năm kéo dài cũng đã qua đi, nhanh như một cái chớp mắt. Vẫn biết thời khắc này sớm muộn gì cũng đến nhưng anh không ngờ nó nhanh như vậy. Bùi Khoái thở dài thốt lên :
          - Thời gian đi nhanh quá, chẳng trách có bao nhiêu thay đổi.
          Pa-ven đưa Bùi Khoái ly cà phê anh vừa pha bằng cái máy ích-prét-xô. Anh này nghiện cà phê nặng nên tự sắm cho mình cái máy pha nhanh để ngay trong phòng làm việc. Mùi cà phê thơm có vẻ làm cho không khí lưu luyến giữa hai người  đặc quánh lại. Pa-ven cầm ly cà phê của mình uống cái ực rồi nói :
          - Chính vì thế nên tôi muốn nói cho anh biết sớm, ngay từ bây giờ. Mọi thứ thủ tục giấy tờ anh sẽ làm sau, trước khi chấm dứt hết tất cả vào tháng 9. Để anh có chút thời gian chuẩn bị.
          Pa-ven lại bấm nút lấy một ly cà phê nữa, đưa miệng ly quệt vào cái bộ ria vàng ươm của mình, mơ màng nói :
          - Tuy hơi buồn nhưng mà sẽ có những niềm vui mới. Anh sẽ được trở về đất nước quê hương, gặp lại vợ con. Giống như trong phim viễn tưởng I.T đang chiếu ngoài rạp ấy, cuối cùng thì người ngoài hành tinh cũng đòi trở về nhà và luôn mồm nói “hôm, hôm !”.
          Không bất ngờ nhưng Bùi Khoái quả thật chưa sẵn sàng cho việc chấm dứt hợp đồng, nếu được tiếp tục làm việc ở nhà máy thêm một ít năm nữa anh ta cũng sẽ vẫn rất vui vẻ nhận lời. Bùi Khoái nhớ lại, vào năm 1987, chính ông bạn quản đốc ngồi đây đã gợi ý cho anh xin kéo dài hợp đồng và việc đó diễn ra thật đơn giản. Bất thình lình Bùi Khoái hỏi Pa-ven :
          - Hay là các anh lại giúp tôi đề nghị với Sứ quán Việt Nam cho kéo dài hợp đồng thêm 2 năm nữa, ý anh thế nào ?
          Pa-ven vẫn cầm chiếc ly không trên tay, thỉnh thoảng lại đưa lên mũi hít lấy mùi cà phê còn sót lại, tỏ ra ngẫm nghĩ trước đề nghị của Bùi Khoái. Một chút im lặng qua đi rồi vị quản đốc này nói :
          - Cá nhân tôi hoan nghênh việc anh xin ở lại tiếp tục làm việc. Được hợp tác với người đã có kinh nghiệm nhiều năm như anh là một may mắn đối với tôi. Tuy nhiên tôi không nghĩ việc xin kéo dài sẽ thuận lợi như trước đây. Tình hình Tiệp Khắc như anh thấy, hiện đang rất phức tạp, đến chúng tôi cũng không biết được cái gì sẽ xảy ra trong nay mai. Đừng nói đến những người hết hạn hợp đồng như anh, những người còn đang trong hợp đồng lao động theo Hiệp định rồi đây sẽ thế nào cũng chưa ai nói trước được.
          Bùi Khoái nhận rõ Pa-ven Ka-đê-ra-bếc đã trả lời anh rất thật tình. Mối quan tâm của Bùi Khoái lúc nào cũng là làm việc và buôn bán. Là kiếm tiền. Anh chẳng bao giờ để ý xem chung quanh đang xẩy ra chuyện gì. Chẳng đọc báo. Có bật vô tuyến cũng chỉ để xem mấy tập phim Liên Xô chiếu vào đêm khuya. Trong đầu anh, những gì đang tồn tại ở đất nước Tiệp Khắc này là bền vững, sẽ cứ tồn tại mãi theo những trật tự và chuẩn mực như anh đã từng biết về nó. Bùi Khoái nói :
          - Tôi thấy ngoài đường phố có cái gì khác lắm, rất nhiều người tụ tập biểu tình, chẳng biết họ chống cái gì, đòi cái gì.  
          - Họ đòi dân chủ. Có điều gì đó to lớn đang diễn ra. Không chỉ ở Tiệp đâu, mà ở cả các nước xã hội chủ nghĩa chung quanh đây, như Ba Lan, Đức, Hung. Trong hoàn cảnh ấy tôi không nghĩ còn có ai để tâm đến việc anh xin kéo dài hợp đồng lao động nữa. Tốt nhất là về với vợ !
          Bùi Khoái phá lên cười, phụ họa :
          - Đúng, đúng quá. Tốt nhất là về với vợ.
          Ở phòng Pa-ven Ka-đê-ra-bếc đi ra, trong đầu Bùi Khoái luôn vẳng lên câu “tốt nhất là về với vợ”. Suốt thời gian 6 năm làm việc, kể cả lúc hết hạn hợp đồng 4 năm, chưa bao giờ ý nghĩ trở về lại rõ ràng như lần này. Trong 6 năm tưởng như dài dằng dặc, đã có những khoảng khắc Bùi Khoái muốn thúc đẩy ngày về đến cho nhanh, thế mà bây giờ nó đến thì anh lại thấy bị hẫng hụt. Bùi Khoái biết tự mình phải vượt qua sự hẫng hụt này. Khi mở cửa căn phòng quen thuộc, nhìn mấy kiện hàng còn xếp ngổn ngang một góc, Bùi Khoái đã tự nhủ phải nhanh chóng giải quyết ngay để thu lại vốn. Còn 3 tháng nữa là thời hạn để nhận tấm vé khứ hồi, cũng là thời hạn để gom hàng đóng kiện. Anh nhớ lại lúc Pa-ven Ka-đê-ra-bếc phổ biến quyết định chấm dứt hợp đồng, chính anh cũng thấy kỳ lạ là ý nghĩ về nước hoàn toàn không làm anh phấn chấn. Hơn 2000 ngày  ăn mỳ ống, uống bia Tiệp, đến nhà máy ngửi mùi dầu mỡ trong đống phoi sắt, thứ bảy chủ nhật chạy chợ kiếm tiền đã đem đến một tình cảm gắn bó thân thiết với người và cảnh Pra-ha mà bình thường anh không nhận biết. Bây giờ còn 3 tháng nữa để xa rời nơi đây, niềm vui trở về đã không đủ tưng bừng để áp đảo nỗi xao xuyến chia ly và ít nhiều nuối tiếc. Bùi Khoái ngồi thần ra trong căn phòng của mình, căn phòng lúc nào cũng nặng mùi mỳ nấu với nước xương. Anh ngồi chống tay lên cằm suy nghĩ vẩn vơ chán rồi bất thình lình đứng dậy, quyết định làm kiểm đếm, tức là đem tiền ra đếm xem mình dành dụm được bao nhiêu để đem về. Những ngày đầu mới sang, khi còn ở ký túc xá, anh ta làm việc kiểm đếm này thường xuyên nhưng khi ra ở riêng, Bùi Khoái ít làm vì biết ở nhà một mình đếm tiền rất có thể gặp nguy hiểm. Thật thú vị và hấp dẫn khi ngồi một mình xếp xếp đếm đếm từng tệp tiền, những tệp tiền lúc đầu mỏng rồi cứ dầy dần lên.
          Bùi Khoái  cẩn thận chốt 2 lần cửa rồi mới mở cặp đíp-lô-mát lấy ra chiếc chìa khóa két sắt. Đây là chiếc két sắt cổ lỗ, thô kệch và nặng nề Bùi Khoái đã khuân về trong một lần đi mua đồ cũ theo mục rao vặt. Sau khi quay 3 vòng mã số và nghe nẫy khóa bật lên một tiếng tách, anh ta kéo cánh cửa sắt nặng chình chịch, lôi từ trong két ra mấy bó tiền đã được buộc gọn gàng bằng dây chun. Bùi Khoái bày cả lên bàn, đứng chắp tay ngắm nhìn gia tài của mình, tim đập rộn lên. Có 4 tập tiền đô la, 3 tập Bùi Khoái để 1000 tờ 100 đô, 1 tập để 500 tờ 100 đô, còn lại là mấy tập tiền ku-run mà anh ta chưa kịp đổi sang đô la. Bùi Khoái nhẩm tính rất nhanh, tính nhẩm nhanh đã trở thành một khả năng xuất sắc của anh, rằng nếu giải quyết tất cả số hàng còn lại, gom hết các khoản khách hàng còn nợ và trả hết số còn nợ người ta, Bùi Khoái có thể ôm về không dưới 400 ngàn đô la. Sau khi làm tổng duyệt như thế, Bùi Khoái thở phào nhẹ nhõm, yên tâm đặt hết tiền vào két sắt, khóa lại cẩn thận, cất chiếc chìa khóa vào cặp đíp-lô-mát. Bùi Khoái luôn mang theo người chiếc cặp này, kể cả lúc đến nhà máy, cốt để anh cất tiền mỗi khi đi giao dịch.
          Bùi Khoái khoan khoái làm mấy động tác thể dục hít thở trước khi lên giường. Vung tay khua chân một lúc, anh ra đứng ở cửa sổ, mở rộng cánh cửa kính cho gió đêm mát lạnh ùa vào. Bất thình lình anh nhìn thấy một mảnh trăng mờ ảo hiện ra trên khoảng trời nhỏ phía trước. Vốn là người thích ăn bánh ngọt, anh ta nhìn mặt trăng và liên tưởng ngay đến một cái bánh sừng bò khá to đặt cạnh những mái nhà lô xô trong ánh sáng đèn điện. Hóa ra từ khi đến ở căn phòng này không mấy khi Bùi Khoái mở cửa sổ và đây là lần duy nhất bất thình lình thấy một mảnh trăng. Phơi mặt ra hứng lấy những cơn gió cuối hè, nhìn xuống con đường vắng vẻ với hàng cây sồi lao xao, anh chợt thấy nao nao nỗi chia ly. Kể từ khi sang Tiệp đến bây giờ sắp đến ngày về nước, chưa bao giờ Bùi Khoái thấy mình lãng mạn như thế này. Khẽ nhếch mép cười thầm chút tình cảm hiếm hoi này, anh ta khép cửa lại, không quên chốt chặt then rồi đi vào. Vừa đặt lưng xuống chiếc đệm trắng lâu không giặt đã ngả sang màu ố vàng thì chuông điện thoại bỗng reo lên. Anh  nhìn đồng hồ, đã 11 giờ đêm, ai còn gọi vào lúc này. Bước đến chiếc điện thoại  Bùi Khoái nghi ngại nhấc máy.
          - A lô, ai gọi đấy ?
          - Chào đại ca, em là Son trong băng Son, Đẻn đây. Lâu không gặp, đại ca còn nhớ không ?
          Bùi Khoái chột dạ khi bọn này gọi anh vào lúc nửa đêm.
          - Quên làm sao được các chú. Lại về ngủ hay sao mà gọi điện vào giờ này ?
          - Không, tụi em đang ở xa.
          - Ở đâu ?
          - Bra-tít-xla-va.
          Bùi Khoái như trút được gánh nặng khi nghe nói chúng đang ở xa, tuy nhiên vẫn không biết chúng gọi điện cho anh có việc gì.
          - Xa thật, tao còn chưa bao giờ đến Bra-tít-xla-va. Thế các chú gọi vào giờ này là có việc gì ?
          Giọng nói đầu dây bên kia quả quyết :
          - Có người ở đây  nhờ đặt hàng với khối lượng rất lớn. Tụi em tính chỉ có anh là có thể đáp ứng được.
          Lúc này tuy điện thoại đã khá phổ biến nhưng chưa có nhiều người dám gọi điện đặt hàng. Bùi Khoái thấy việc ấy có chút ngờ ngợ nên hỏi :
          - Thế à, người ấy là ai, họ đặt những gì ?
          - Anh này là người Việt, mối làm ăn của chúng em. Hàng đặt rất đa dạng,  các loại hiếm như đồ điện tử, mắt kính, dây chuyền…Anh có sẵn không ?
          Chỉ bỗng chốc Bùi Khoái đã lấy lại được tinh thần lạc quan thường ngày. Hễ động đến hàng và tiền là anh ta thấy tinh thần phấn chấn hẳn lên, y như người chuẩn bị bước vào một cuộc chơi đầy thách thức nhưng vô cùng hứng thú. Buôn bán kiếm tiền đầy khó khăn đã trở thành niềm ham thích của anh ta, đã choán gần hết khoảng thời gian ngần ấy năm tháng ở Tiệp. Thoáng  trong đầu anh ý nghĩ chỉ làm một cú này nữa rồi về. Bùi Khoái cười lên hơ hớ :
          - Chú nói hay nhỉ, tao lúc nào mà không sẵn sàng.
          Phía đầu dây bên kia cũng có tiếng cười rộn rã. Giọng thằng Son lại vang lên trong máy :
          - Cụ thể thế này, có bao nhiêu hàng đại ca cứ gom hết lại trong nhà, sẵn sàng để người ta đến lấy. Trả tiền rồi mới giao hàng chứ không giao hàng trước, như thế là yên tâm chắc chắn chứ gì ! Mang đi Bra-tít-xla-va, đường xa nên phải cẩn thận sao cho an toàn. Hàng mua bán tính tiền theo giá chung. Thế được chưa ?
          Bùi Khoái cao hứng tuyên bố :
          - Các chú bảo người ta cứ chuẩn bị sẵn tiền, mọi việc khác khỏi lo. Bao giờ phải giao hàng ?
          - Ba hôm nữa.
          - Không được ! Phải để tao dăm bảy ngày gom hàng chứ.
          - Vậy thì năm ngày nữa. Để tụi em nhỡ là không ổn đâu !
          Cú điện thoại của thằng Son làm cho Bùi Khoái trằn trọc không ngủ được. Trằn trọc nghĩ đến vài chục ngàn đô có thể thêm vào số vốn vừa kiểm kê lúc tối. Trong trí tưởng tượng hân hoan của mình, Bùi Khoái thấy hiện lên hình ảnh bộ dàn Pa-na-sô-níc màu đen bày bán ở cửa hàng điện máy trung tâm mà mỗi lần đi qua Bùi Khoái đều đứng lại tần ngần ngắm nghía. Bộ dàn ấy đặt trong căn phòng ngôi nhà mới ở Hà Nội mà Bùi Khoái thường tưởng tượng ra thì oách phải biết ! Xong vụ giao dịch này, Bùi Khoái có thể hoàn toàn yên tâm bỏ ra 3000 đô lấy bộ dàn trong mơ  đem về mà không còn lăn tăn gì.
          Ba ngày tiếp theo sau cú điện thoại trong đêm của băng Son, Đẻn, Bùi Khoái lọ mọ đi gom hàng, đem về những kiện lớn nhỏ xếp chật căn phòng. Sang ngày thứ bốn Bùi Khoái phải đi sớm gặp chủ hàng Nam Tư để lấy một số lượng lớn đồng hồ điện tử, xong giao dịch này xem như hoàn tất, chỉ còn đợi người của bọn Son, Đẻn trả tiền lấy hàng. Chủ hàng Nam Tư trao cho Bùi Khoái chiếc va li to đã được chuẩn bị từ trước, vừa đếm tiền vừa hỏi Bùi Khoái :
          - Lần này anh đem đi Nga hay sao mà lấy một lúc nhiều thế ?
          - Không, lấy cho người ta mang đi Bra-tít-xla-va.
          - Đúng rồi, hàng này ở Bra-tít-xla-va bán chạy lắm. Anh nên gọi tắc xi mà đi, tôi thấy sáng này công an ra đường khá nhiều.
          - Công an ra đường nhiều là vì mấy vụ biểu tình đấy, họ không để ý đến tụi mình đâu. Tuy vậy tôi cũng sẽ gọi tắc xi.
          Bùi Khoái bắt tắc-xi để chở hàng về. Quả nhiên trên đường anh thấy người đổ ra rất đông, có cái gì căng thẳng oi bức như trước cơn giông. Nửa tiếng sau Bùi Khoái về nhà trót lọt. Khệ nệ xách chiếc va li nặng chịch lên đến cửa, thò tay vào túi lấy chìa khóa, anh ta hoảng hốt khi thấy cửa phòng đã bị bật tung. Mồ hôi vã ra lấm tấm, chân tay run lên rụng rời, Bùi Khoái đẩy cửa bước vào, chết điếng  trước một cảnh tượng tan hoang, lộn xộn và trống không. Tất cả những kiện hàng đóng gọn gàng trước đó đã biến mất, cánh cửa chiếc két sắt bật toang ra như miệng một con thú vừa bị nện cho đến chết. Bùi Khoái vội khoắng tay vào trong cái miệng con quái vật đã chết ấy, tay anh đụng phải một gói nhỏ, lôi ra xem thì đó là gói tiền ku-run nhỏ nhất. Thế là hết ! Bùi Khoái run bắn toàn thân, hét lên :
          - Trời đất ơi, tại làm sao lại đến nước này !
          Tim đập liên hồi và như bị bóp nghẹt lại trong ngực, mồ hôi vã ra lạnh toát, anh ta ngã vật xuống, lịm đi ngay trước cái két rỗng.
           Bùi Khoái đã nhiều lần bị lừa mất của. Chuyện lừa lọc trong một thương trường đầy những mưu mẹo ma-phi-a là chuyện thường xảy ra. Một lần buôn dây chuyền, tuy đã kiểm tra cẩn thận mà không hiểu tại sao sau một tuần, tất tần tận dây chuyền Bùi Khoái gom về đều tự nhiên đứt hết, các mắt xích cứ thế tự bung ra, người mua đem vứt trả, đòi lấy lại tiền. Một lần đặt mua 20 nghìn đô la, trong khi đang đếm trả tiền ku-run mà chưa nhận tiền đô thì bỗng có tiếng kêu thất thanh “pô-lit-xai”, thế là kẻ mua người bán đều bỏ chạy, đến khi biết bị lừa chứ chẳng có công an nào thì tiền đã mất. Lại một lần khác, khi đó Bùi Khoái còn làm cùng với Đình Dũng, do ít vốn nên phải huy động anh chị em ở mãi các tỉnh như Li-bê-rét, Khô-mu-tốp, Mô-xtơ, Plơ-zen, Ô-xtra-va, Brơ-nô… , ai cũng nhanh nhẹn đưa tiền và nóng ruột chờ lấy hàng. Việc giao dịch diễn ra ngoài đường, gần ký túc xá. Chiếc xe thùng to chở hàng nổ máy xình xịch, người lái xe bình thản ngậm tẩu thuốc, tay đặt trên vô-lăng. Bùi Khoái và Dũng vào nhà lấy tiền đem ra, vừa đưa tiền xong thì chiếc xe rồ máy phóng đi mất. Dũng nhanh tay bám được vào cửa xe bên phải, xe kéo đi khoảng 20 mét thì không chịu nổi đành buông ra, anh ngã xuống mặt đường, mặt mũi xây xát, quần bò dày thế mà rách bươm, đùi toác ra, máu chảy thấm đẫm ống quần. Hình dạng ấy đã là lời thú nhận thua trận của Đình Dũng, ai cũng hiểu và không nỡ  lập tức đòi lại tiền.  So với lần này, những lần mất trước ấy coi như không đáng kể, chỉ như một khoản học phí Bùi Khoái phải trả cho chuyện làm ăn,  mấy ai lăn lộn chợ búa ở đây mà không mắc phải. Lần này đã mất sạch, trắng trơn, không còn gì. Tất cả tiền cả hàng là gia tài toàn bộ 6 năm làm ăn. Lại xảy ra đúng lúc Bùi Khoái đang chuẩn bị về nước. Làm gì có ai về nước với hai bàn tay trắng như thế này được ! Tiếc của hùi hụi, thà chết còn hơn. Anh nằm thượt ra như một cái xác, trong khoảng tối âm u lúc thiếp lúc tỉnh không hồn ấy, Bùi Khoái đã ba lần nghĩ đến tự tử. Chết cũng là một chuyện đơn giản, dễ thôi, cứ lao thật mạnh đỉnh đầu vào tường là xong. Lần thứ nhất quyết chết, Bùi Khoái đã gượng ngóc đầu thì mắt bỗng tối sầm, tai ù tịt. Trước làn ranh giới phân cách giữa sống và chết, anh ta nghe rõ tiếng vợ da diết níu kéo “đừng bỏ mẹ con em”. Bùi Khoái vẫn biết Thanh có chút bệnh về tim, trái tim cô ta mong manh như thủy tinh, nếu biết tin chồng bị lừa đến mức phải tự tử ở đất người thì sẽ bị tổn thương mà vỡ vụn. Lần thứ hai quyết chết, khi vừa ngước lên thì mắt đập vào bức ảnh con gái treo ở trên tường. Con gái anh có mái tóc xoăn đen láy giống tóc mẹ, mắt tròn xoe mở to nhìn anh như nói điều gì rồi bỗng đập cánh bay ra, miệng toét cười. Chính đôi mắt cô con gái ngây thơ ấy làm cho Bùi Khoái gục xuống thảm hại. Lần thứ ba quyết chết, đã lổm ngổm đứng dậy được trong tư thế chuẩn bị lao đầu vào tường thì cửa phòng bật mở, một người con gái ào vào như cơn gió.
          Người con gái này  là Bích Ngọc. Tốt nghiệp Bách Khoa cách đây 3 năm, cô mới được sang Tiệp theo tiêu chuẩn thực tập sinh. Bích Ngọc không được ở Pra-ha mà phải về tỉnh Kô-xi-xe, cách xa hơn 1000 cây số. Cô là em con dì của Lê Văn Thành nên lúc mới sang Thành đã gọi điện gửi Ngọc cho Bùi Khoái để anh kèm cặp làm ăn, không quên một lời dặn ý tứ :
          - Mày nhớ nương nhẹ với nó đấy nhé, một vừa hai phải thôi, nó đã trải qua một thời gian cơ cực lắm.
          Lúc ấy Bùi Khoái cười hơ hớ nói :
          - Chết thật, đem mỡ đặt vào miệng mèo thế này bảo nương nhẹ làm sao được ! Ai mà cưỡng lại nổi một cô em cao ráo, xinh xắn, lại có cái răng khểnh làm mê hồn như thế.
          Đúng là Thành đã đem mỡ đặt vào miệng con mèo hoang. Bích Ngọc thường lên Pra-ha nhờ Bùi Khoái lấy hàng, cái gì phải đến đã đến, tất nhiên là trong sự hài lòng của cả hai. Chuyện Bùi Khoái bị bọn “hộ tịch pháp” lừa không biết bằng cách nào mà được lan truyền rất nhanh trong cộng đồng. Thành đã gọi điện báo cho Bích Ngọc và cô đã tức tốc đi Pra-ha.
          - Anh định chết rũ xác ở đây hay sao !
          Bích Ngọc ghé sát vào tai Bùi Khoái hét lên rồi túm cổ áo lôi anh ta dậy, nhăn mũi vì ngửi thấy mùi bài tiết trên cơ thể anh này. Hóa ra anh đã nằm như thế từ hai hôm, bốc mùi như một cái xác chết lềnh phềnh trôi nổi trong những giấc mơ quái đản và những nỗi kinh sợ mê man.
          - Sắp chết đói hả, để em nấu cho bát cơm nhé.
          Bùi Khoái thều thào :
          - Nước, khát nước.
          Bích Ngọc vặn vòi nước rót đầy vào chiếc cốc thủy tinh đưa cho Bùi Khoái, anh ta ngửa cổ tu ừng ực một hơi.
          - Đang định đập đầu vào tường thì em vào. Cái số chưa chết được.
          - Dở hơi, chưa chi đã nghĩ đến chuyện chết. Con trai gì mà hèn !
          Thoáng một cái Bích Ngọc đã xắp xong bữa cơm. Cô xới cơm ra bát, bắt Bùi Khoái phải ăn.   
          - Trông anh vêu vao, phát khiếp được.
          Đúng là đã hai hôm từ khi mất hàng Bùi Khoái không có gì vào bụng, không thiết đến ăn uống. Lùa được hai lưng cơm, Bùi Khoái thấy sức lực hồi dần, chân tay cũng hoạt bát hơn, đầu óc tỉnh táo ra. Anh hỏi :
          - Sao em biết mà đến ?
          - Người ta đồn ầm là anh chết trong nhà. Nghe phát khiếp. Anh bị mất những gì ?
          Bùi Khoái mếu máo :
          - Hết rồi, còn cái xác này đây.
          - Còn được cái xác mang về cho vợ là tốt. Có biết bọn nào không ?
          - Băng Son, Đẻn chứ còn bọn nào. Anh mất cảnh giác quá, như người bị thôi miên, cứ mụ đi, quên béng là chúng nó có chìa khóa.
          - Sang đây ai chẳng bị thôi miên. Tiền nó thôi miên cả mà. Thế có báo cho công an không ?
          Bùi Khoái dãy nảy :
          - Không được. Hàng của mình toàn là hàng lậu, khai báo thế nào. Anh lại thuộc diện hết hạn hợp đồng, nhà máy đã thông báo rồi. Tốt nhất là đừng dây đến công an.
          Nói đến đây Bùi Khoái lại thở dài chép miệng :
          - Anh rơi vào tình cảnh éo le này, biết về thế nào, chẳng lẽ lại về tay không !
          - Nghe tin anh bị lừa, lại còn nợ tiền của chủ hàng, em đi vay cho anh 15 ngìn cu-run đây. Thật tình không đáng là bao nhưng trong lúc chẳng còn gì thì vẫn tốt.
          Bích Ngọc  lấy trong túi ra một gói tiền đưa Bùi Khoái. Bùi Khoái cầm tay cô, cảm nhận một tình cảm ấm áp lan truyền sang anh, cố nén nỗi buồn vào trong mà nói đùa theo bản tính :
          - Thế rồi nhỡ anh lại bị lừa mất nữa thì sao ?
          -  Thì để em đi cày trả nợ cho anh-Bích Ngọc cười, đùa lại.
          Có tiếng chuông điện thoại, Bùi Khoái ngập ngừng đứng lên. Anh ta đang sợ nghe điện thoại nhưng vẫn nhấc máy. Đấy là Lê Văn Thành gọi cho anh từ Li-bê-rét.
          - Cái Ngọc đã lên với mày chưa ? Tao vừa gửi bưu điện cho mày 7 nghìn ku-run, tháng này có bao nhiêu tao gửi hết rồi đấy.
           Bùi Khoái cảm động, gượng gạo :
          - Mày gửi cho tao gấp 10 lần như thế thì tao nhận, 7 nghìn thì không. Ai lại đi lấy tiền cóp nhặt của mày.
          Những đồng tiền ít ỏi của Lê Thành và của Bích Ngọc, dù nhận hay không, cũng đã đốt lên một ngọn lửa đủ để sưởi ấm, nâng đỡ Bùi Khoái đứng dậy giữa lúc anh cảm thấy mình đơn độc và lạc lõng như một kẻ đang bị bỏ rơi. Tinh thần lạc quan vốn là tính cách của Bùi Khoái mau chóng trở lại, ý nghĩ đen tối về cái chết bị đẩy lùi. Bùi Khoái cắn răng, nghĩ phải mau chóng về nước, nhưng dẫu ngày mai Sứ quán đưa vé ra sân bay anh cũng không chịu về với hai bàn tay trắng. Tính khí ương ngạnh bướng bỉnh pha chút quật cường trỗi dậy, bỗng chốc Bùi Khoái nhận ra nó mạnh mẽ lạ thường. “ Phải làm lại từ đầu”, Bùi Khoái lẩm bẩm.
          Anh không đưa Bích Ngọc ra ga như mọi khi. Hai người cùng đi đến bến xe buýt thì chia tay, Bích Ngọc về Kô-xi-xe còn Bùi Khoái đi vay tiền. Người đầu tiên Bùi Khoái tìm đến là Thực. Tìm đến Thực bởi vì anh này thường đi lễ Phật, thường hay nói tới đức tính từ bi và tế độ. Hơn nữa anh này có đủ mẹo làm ăn, lại là cán bộ nhân viên của nhà nước nên Bùi Khoái nghĩ chắc sẽ cảm thông mà dang tay cứu đỡ. Không ngờ Thực đã gườm gườm nhìn Bùi Khoái, cảnh giác như là Bùi Khoái sắp cướp hết đống đầu máy khâu cũ của anh ta. Thực thẳng thắn trả lời :
          - Kể cả là ông còn ở lại Tiệp thì tôi cũng khó cấp vốn cho ông bởi vì tình hình Tiệp lúc này lộn xộn lắm, chẳng biết thế nào. Có được chút nào thì biết mà giữ lấy. Huống hồ bây giờ ông đã hết hạn ở Tiệp, phải về nước. Tôi không cho ông vay được !
          Bùi Khoái nghĩ thầm, đến con đẻ mà lão ta còn bỏ rơi, không bỏ tiền ra cứu, nói gì tới một thằng đang lâm vào cảnh trên răng dưới dái như mình. Nghĩ thế rồi không thấy oán giận gì, Bùi Khoái thất thểu đi ra, buồn nhưng không nản. Người thứ hai Bùi Khoái tìm đến là ông Sĩ, Viện trưởng một viện nghiên cứu trong nước, sang Tiệp theo đường của tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa  của Liên hợp quốc, lương một tháng 16 nghìn ku-run. Ông này khi mới đến Pra-ha vô tình gặp Bùi Khoái, anh đã cho ông ta ở nhờ trong thời gian gần 3 tháng để đi tìm nhà, cơm bưng nước rót mà không nhận lại một xu. Ông Sĩ hồ hởi cho anh vay 40 nghìn ku-run với điều kiện phải trả lãi 5%, nghĩa là mỗi tháng phải trả thêm 2 nghìn ku-run. Ông Sĩ nhếch miệng cười, nói :
          -  Như thế là đã tương trợ giúp đỡ nhau rồi.
          Bùi Khoái nhẩm tính, thấy lãi cao quá bèn thôi không vay, lòng chất chứa cay đắng về chuyện nghĩa tình. Cùng đường, anh ta nghĩ tới một ông bạn người Tiệp. Người này tên là Zđen-nếc, một đảng viên cộng sản, nguyên là quản đốc nhà máy gỗ Ri-tran-ny, cách Pra-ha 30 cây số. Giống như Bùi Khoái, Zđen-nếc cũng rất hay cười, tiếng cười cởi mở và độ lượng. Lần đầu mới gặp Zđen-nếc, Bùi Khoái hơi ngại khi đội chiếc mũ nồi đỏ, anh ta liền bỏ ra vò trên tay, hỏi :
          - Tôi đội cái mũ này anh có thấy khó chịu không ?
          Zđen-nếc ngạc nhiên :
          - Làm sao lại khó chịu ?
          - Tại vì đã có nhiều người tỏ ra khó chịu. Họ bảo tôi là lập dị, là khác biệt. Anh có thấy tôi khác biệt không ?
          Cười ngất hồn nhiên, Zđen-nếc nói :
          - Anh mà khác biệt cái gì ! Thực ra thì cái bình thường ở người này có thể là cái không bình thường ở người khác, nhưng mà một xã hội bình thường thì phải biết chấp nhận sự khác biệt giữa các thành viên. Đấy chính là sự đa dạng của cuộc sống.
          Bùi Khoái cười lên khơ khớ, vung tay chụp lại cái mũ đỏ lên đầu.
          Bùi Khoái chuyển hai lần xe buýt thì tời nhà của Zđen-nếc. Thực ra Zđen-nếc quen biết và giao thiệp với Bùi Khoái chủ yếu với tư cách là một chủ hàng, sau trở nên thân thiết như bạn làm ăn. Anh này có cửa hàng mặt phố gần chợ Con Bò, cũng là một cái tên do người Việt đặt. Đây là một cửa hàng bán quần áo, tuy mặt tiền khá rộng nhưng chỉ treo lèo tèo mấy bộ quần áo bò. Bà vợ Zđen-nếc to béo có mái tóc bạch kim cắt ngắn và đôi môi son đỏ ngồi trông hàng và thu tiền mỗi khi có khách. Những lần Bùi Khoái đến giao dịch ở đây đều thấy ông bạn người Tiệp nặng 83 cân, cao 1 mét 92 này mặc quần bò xanh, áo ca rô màu đỏ bỏ trong quần, trông ông ta trẻ trung hơn bà vợ nhiều. Zđen-nếc có bộ tóc hoa râm khá dài phủ kín gáy, lại thường xuyên đeo kính cận nên trông anh ta già hơn Bùi Khoái nhưng thực sự chỉ hơn Bùi Khoái một, hai tuổi, ngoại trừ việc đứng bên cạnh Zđen-nếc, Bùi Khoái chỉ như một cậu thiếu niên. Vì là bạn làm ăn nên Bùi Khoái biết cửa hàng quần áo nghèo nàn chỉ là để che mắt, trong kho của Zđen-nếc mới thực sự là nơi chứa đủ các thứ hàng lậu. Bùi Khoái thường lấy hàng ở đây đem bán trước rồi mới trả tiền cho Zđen-nếc sau.
          Thấy Bùi Khoái đến, Zđen-nếc chạy ra bắt tay, kéo anh vào trong nhà, hỏi ngay :
          - Dạo này anh thế nào, sao ít thấy đến lấy hàng ?
          Bùi Khoái đã định giấu Zđen-nếc việc mình đang chuẩn bị về nước nhưng cuối cùng anh ta không thể nói dối được.
          - Tôi đã hết hạn hợp đồng ở nhà máy, đang chuẩn bị về nước nên bận.
          - Về nước chắc anh vui lắm ? Khi anh về, tôi và vợ sẽ đi Việt Nam nghỉ hè.
          - Tất nhiên là như thế rồi, tôi sẽ đưa anh chị đi Vịnh Hạ Long. Nhưng mà…
          - Nhưng mà làm sao, anh có chuyện gì à ? Trông anh không được bình thường lắm.
          - Đúng thế. Tôi mới bị bọn xấu lừa, lấy hết hàng và tiền, nay tôi không còn đồng nào để tiếp tục buôn bán.
          - Thế cơ à, bi đát quá nhỉ-Zđen-nếc ngạc nhiên thốt lên.
          - Thực sự rất bi đát. Hôm nay tôi đến đây để nhờ anh giúp tôi.
          - Tôi có thể giúp thế nào ?
          Zđen-nếc hỏi, giọng oang oang, mắt nhìn thật sự thông cảm khiến cho Bùi Khoái thấy thêm phần tự tin.
          - Tôi cần tiền. Sau khi mất hàng, tôi đã phải vay rất nhiều người Việt, bây giờ họ về nước mà tôi vẫn chưa có trả nên họ lùng xục tìm tôi, ra tối hậu thư 3 ngày phải trả. Thậm chí có người còn dọa giết nếu không đúng hẹn.
          Bùi Khoái đã nói quá lên một chút nhưng tình cảnh thật của anh lúc này cũng chẳng khác gì nhiều. Zđen-nếc đã quen với môi trường chợ búa nên không lấy làm lạ về những điều Bùi Khoái vừa nói, tỏ ra rất ái ngại cho anh.
          - Làm sao có thể như thế được ! Anh cần tôi giúp bao nhiêu ?
          - Tùy anh thôi, không dám phiền anh nhiều-Bùi Khoái nói.
          Zđen-nếc quả quyết đứng lên đi vào trong, để Bùi Khoái ngồi một mình ở phòng khách. Một lúc sau anh ta đi ra, cầm theo một gói giấy báo.
          - Anh cầm chỗ này, tôi chắc là đủ cho anh lo liệu.
          Bùi Khoái mở gói báo ra, lặng đi vì không thể tin nổi mình đang cầm trong tay 5 tập tiền đô la, mỗi tập 10 nghìn, tổng cộng là 50 nghìn. Anh ta tròn mắt nhìn Zđen-nếc :
          - Anh cho tôi mượn ngần này cơ à ?
          - Hiện giờ tôi chỉ có tưng ấy.
          - Ý tôi nói là nhiều, ngoài dự kiến của tôi. Anh không sợ tôi cầm ngần này tiền rồi trốn mất à ?
          Zđen-nếc phá lên cười :
          - Tôi biết anh là một người bạn Việt Nam tử tế, không đời nào đi làm cho tôi cái điều xấu xa mà người ta đã làm cho anh.
          Bùi Khoái cất tiền vào cặp đíp-lô-mát, khóa lại cẩn thận rồi đứng lên ôm chầm lấy ông bạn người Tiệp :
          - Cám ơn Zđen-nếc rất nhiều, tôi rất biết ơn anh.
          Zđen-nếc vỗ bồm bộp lên vai Bùi Khoái, nói :
          - Thôi thôi, mau chóng giải quyết rồi trả lại vốn cho tôi là được.
          Thấy trong góc phòng để một đống những bó hoa giấy màu đỏ mới làm, Bùi Khoái hỏi :
          - Sao lại có nhiều hoa thế này, anh buôn à ?
          Zđen-nếc hào hứng trả lời :
          - Không buôn. Đấy là hoa để chuẩn bị biểu tình. Sẽ có biểu tình lớn lắm.
          Bùi Khoái thật thà :
          - Hỏi thực anh nhé, tôi không biết biểu tình đấy là ai chống ai ?
          - Không ai chống ai cả. Biểu tình đòi dân chủ.
          - Tôi hiểu đơn giản là biểu tình chống đảng cộng sản, có đúng không ?
          - Đã đến lúc đảng phải thay đổi.
          - Anh có tham gia biểu tình không ?
          - Có chứ. Tôi sẽ tham gia.
          - Nhưng anh là đảng viên cơ mà ?
          - Đảng viên họ cũng đi biểu tình nhiều chứ.
          Bùi Khoái rất ngạc nhiên khi thấy Zđen-nếc từ một đảng viên, một quản đốc phân xưởng trong nhà máy chuyển thành một người đi buôn, kể cả buôn hàng cấm, rồi nay lại tham gia biểu tình đòi dân chủ, nghĩa là hoạt động chính trị, khác hẳn với Pa-ven Ka-đê-ra-bếc trong nhà máy ô tô. Pa-ven Ka-đê-ra-bếc có nét gì đó giống với ông Trần Đại và những người khác trong chi bộ đảng ở bộ môn Bùi khoái. Thật lạ lùng, những gì đang diễn ra quanh đây hoàn toàn không như những gì Bùi Khoái vẫn thường biết. Anh ta nghĩ, đất nước Tiệp Khắc mà mình đã sống và làm việc hơn 6 năm trời chắc chắn đang sắp diễn ra những chuyển biến to lớn mà những người như Bùi Khoái chưa thể hiểu hết được.
          Chỉ mới một tuần sau khi cho vay tiền, Zđen-nếc đã gọi  điện cho Bùi Khoái. Anh ta hốt hoảng :
          - Anh đừng đòi tiền tôi bây giờ, tôi chưa thể có được.
          Zđen-nếc cười sằng sặc trong máy, vui vẻ :
          - Không ! Chỉ để nói với anh rằng có một món hàng rất tốt. Anh muốn nhập không ?
          - Món gì đấy ?
          - Ra-đi-ô lắp cho ô tô, các bạn Việt Nam thường gọi là cáp ô tô ấy mà. Trông thấy ngon lành rồi. Anh nghĩ sao ?
          Bùi Khoái nghi ngại :
          - Sao anh không nhập ?
          - Tôi còn đang bận chuẩn bị biểu tình. Vả lại anh cần hơn tôi.
          Bùi Khoái khấp khởi mừng, cảm thấy như cơ hội lại vừa đến với mình.
          - Thế thì để tôi. Tôi đến chỗ anh à ?
          - Không. Chiều nay anh đến quán rượu Lu-xe-rơ-na ở trung tâm, gặp một người Nam Tư tên là Gô-ren làm việc trực tiếp với anh ta.
          - Tôi biết quán rượu ấy nhưng chưa biết Gô-ren.
          - Cứ đến đấy, Gô-ren sẽ biết cách nhận ra anh.
          Theo lời dặn của Zđen-nếc, ngay buổi chiều Bùi Khoái đi đến trung tâm. Bây giờ anh ta không dám đi lại nhênh nhang như trước nữa, bởi vì từ khi bước ra khỏi nhà máy, Bùi Khoái không còn quy chế hợp tác lao động, đã trở thành người sống bất hợp pháp. Bùi Khoái đã quá quen với những cuộc hẹn họ giao dịch ở quán rượu, anh ta bước vào cửa hàng Lu-xe-rơ-na ấm áp với vẻ dáng đầy tự tin. Thoạt đầu anh ta đứng lại đảo mắt nhìn một vòng rồi mới tiến đến một cái bàn trống ở gần cửa sổ, gọi một cốc bia tươi. Bên cạnh là một tốp thanh niên nam nữ trẻ tuổi, nhiều cô gái mặc quần bò áo thun, ở lưng có in đầy sao xanh, họ nói với nhau bằng tiếng Anh nên Bùi Khoái nghĩ họ đến từ Mỹ. Một cô gái giơ cao cốc bia lên chào Bùi Khoái :
          - Trung Quốc à ?
          Bùi Khoái rất khó chịu với những câu hỏi như thế nhưng vẫn phải mỉm cười lắc đầu :
          - Không. Việt Nam.
          Cô này lại giơ cao cốc bia lên nữa :
          - Ồ, Việt Nam. Hãy uống mừng Việt Nam.
          Vừa lúc ấy có một thanh niên cao to đi thẳng đến chìa tay cho Bùi Khoái :
          - Mừng Việt Nam !
          Bùi Khoái đứng lên bắt tay, liếc nhìn anh chàng có cái mũi lõ rõ to và mái tóc dài màu nâu. Bên ngoài trời đã lạnh nhưng anh này vẫn chỉ khoác mỗi chiếc áo gi-lê bộ đội, để lộ ra cơ ngực và bắp tay nổi cuồn cuộn. Anh ta kéo ghế ngồi và giới thiệu bằng một thứ tiếng Tiệp ngọng ngịu :
          - Tôi là Gô-ren. Anh Zđen-nếc đã nói với tôi về anh.
          Bùi Khoái ngạc nhiên :
          - Sao anh mới vào đây mà đã biết tôi là bạn Zđen-nếc ?
          Gô-ren nháy mắt về phía mấy người Mỹ .
          - Nhờ mấy cô gái kia vừa nói “ Hãy uống mừng Việt Nam”.
          Sau mấy câu chuyện dạo đầu, Bùi Khoái đặt vấn đề luôn :
          - Zđen-nếc nói anh có cáp ô tô là thứ tôi cần mua.
          - Đúng thế. Anh bạn của chúng ta đã nói qua về hoàn cảnh bi đát của anh, vậy nên tôi sẽ lấy mức giá thấp nhất. Anh cần bao nhiêu ?
          Lúc đến quán rượu, Bùi Khoái đã định đóng giả một người trên tiền đi tìm hàng, không ngờ Zđen-nếc đã tiết lộ tình cảnh của anh. Bùi Khoái không còn con đường nào khác là phải thật thà, thật thà trong trường hợp này lại là tốt nhất.
          - Phải rồi, tôi đang gặp rất nhiều khó khăn. Với sự giúp đỡ của Zđen-nếc, tôi hy vọng chuyến hàng này sẽ vực tôi đứng dậy. Tôi sẽ lấy nhiều nhất trong phạm vi có thể của tôi.
          - Tôi hiểu, làm ăn thì ai chẳng có lúc khó khăn. Anh lấy nhiều nhất là bao nhiêu ?
          - 1000 chiếc.
          - Tất cả tôi đang có 1200 chiếc, anh cố lấy hết đi. Chắc được đấy, không có gì phải băn khoăn cả. Anh có thể trả vốn tôi sau khi giải quyết xong, tất nhiên cần nhanh gọn.
          - Tốt. Các anh giúp thì tôi lấy hết. Nhận hàng ở đâu ?
          - Mình hẹn nhau ở số 1175 phố Mút-xtếc, đến đấy rồi sẽ có người báo địa chỉ cụ thể sau. Anh cần giao cho một người cẩn thận đến nhận gọn một chuyến, cứ nói lấy hàng của tôi là Gô-ren, tôi sẽ dặn trước người ta.
          - Tốt rồi. Nào, cạn chén mừng phi vụ này.
          Uống xong vại bia, Gô-ren đứng lên xòe bàn tay to như cái quạt vỗ vào mông cô phục vụ trẻ rồi nhanh nhẹn đi ra. Bùi Khoái thấy có người mở cửa cho anh ta cúi khom chui vào một cái xe Mốt-cô-víc màu sữa, chẳng khác nào con gấu to chui vào cái cũi nhỏ. Bùi Khoái cũng hân hoan ra về, tất nhiên là đi ra bến đợi xe buýt. Ngồi trong chiếc xe có nhịp sóc lắc lư quen thuộc, anh lần  nhớ tên mấy người có thể đi nhận chuyến hàng đặc biệt này. Một là nhờ Thực thuê lái xe của cơ quan anh ta, có điều Bùi Khoái không còn cảm tình với Thực như trước nữa, vả lại chiếc xe Von-ga đen mang biển ngoại giao đã quá cũ kỹ lại chật hẹp. Hai là thuê xe ở ngoài, việc thuê ngoài bây giờ cũng đã rất tiện, nhưng không ai lại đi ký hợp đồng cụ thể và rõ ràng về một chuyến chở hàng lậu. Cuối cùng Bùi Khoái nghĩ tới Mi-rếc, người lái xe trong nhà máy sản xuất phụ tùng ô tô. Anh ta liền xuống bên, đợi bắt chuyến buýt số 219 là chuyến đi qua nhà máy.
          Mi-rếc cùng chạc tuổi với Zđen-nếc, đầu húi cua, cao to không kém gì Gô-ren. Anh ta và Bùi Khoái cùng tham gia đội bóng chuyền của nhà máy, nhờ thế mà hai người quen biết nhau. Là cầu thủ giỏi nhất của đội, Mi-rếc có đôi tay dài bắt bóng thật dính, búng bóng thật nẩy, thật xoáy và thật mãnh liệt, giúp cho đội bóng bao giờ cũng được giải mỗi khi thi đấu ở quận. Lúc đầu cũng chỉ bia bọt những khi tập bóng, lâu dần quen thân, Bùi Khoái liền thuê anh ta chở hàng lậu cho mình, trả công rất hậu hĩnh. Từ chỗ giữ ý, dần dần Mi-rếc trở nên dày dạn, lâu không có hàng là lại hỏi Bùi Khoái sao không thấy gì
          Chiếc buýt 219 đỗ ngay cổng nhà máy. Bùi Khoái nhảy xuống xe, vẫy chào người gác cổng rồi đi thẳng vào trong mà không bị giữ lại. Đã hơn một tháng không qua lại đây, Bùi Khoái thấy lòng bồi hồi khi nhìn khung cảnh quen thuộc. Anh vui mừng reo lên khi trông thấy Li-mô-va từ trong phân xưởng tiện đi ra.
          - Li-mô-va, cô đã sắp nghỉ chưa ?
          Li-mô-va cũng mừng rỡ khi gặp Bùi Khoái.
          - Chào anh. Sao đã lâu tôi không thấy anh ở nhà máy ?
          - Tôi đã hết hợp đồng làm việc ở đây rồi, bây giờ đang chờ để về Việt Nam.
          - Tuyệt quá, chúc mừng anh. Ở Tiệp lâu thế chắc anh đã chán ngấy rồi !
          Bùi Khoái vội vàng xua tay :
          - Không có, không phải thế. Đất nước của các bạn giàu có và tươi đẹp lắm, tôi yêu mến các bạn, chỉ muốn ở lại lấy một cô vợ như Li-mô-va thôi.
          Li-mô-va vẫn gọn gàng xinh tươi trong bộ đồ công nhân màu xanh, đầu vẫn chít chiếc khăn màu da trời khỏe khoắn. Quả thật cô là một cô gái Tiệp mẫu mực, đã trưởng thành đi làm rồi mà lương tháng vẫn đưa hết cho mẹ, mỗi ngày mẹ đưa lại cho 10 cu-run ăn trưa ở căng tin. Cô rất quý Bùi Khoái, thường nói quý người Việt Nam hơn mấy người châu Phi. Có một lần Bùi Khoái thấy cô chăm chú lấy một chiếc gậy bới tìm cái gì đó trong đống phoi sắt. Anh hỏi tìm cái gì thì cô trả lời đang tìm 2 đồng 5 cu-run mà cô đánh rơi. Bùi Khoái cười bảo thôi đừng tìm nữa, anh mời đi ăn trưa nhưng Li-mô-va không đi, nhất định bới tìm bằng được. Cô nói cái gì của mình thì mình phải trân trọng và giữ chắc lấy nó.
          Li-mô-va cười duyên dáng nói đùa lại :
          - Li-mô-va đợi mãi mà không thấy anh Bùi Khoái ngỏ lời. Bây giờ lấy Li-mô-va đem về Việt Nam đi.
          - Về Việt Nam khổ lắm, không có nhiều bia, nhiều xúc xích như ở Tiệp, Li-mô-va có chịu khổ được không ?
          Đùa vui với cô gái đẹp làm Bùi Khoái thấy vơi đi những nỗi niềm, tí nữa thì quên chuyện đi gặp Mi-rếc. Li-mô-va bảo Mi-rếc chắc đang ngồi chơi bài trong đội xe. Bùi Khoái đi ngang qua phòng Quản đốc Pa-ven Ka-đê-ra-bếc, vẫn thoáng thấy mùi cà phê thơm từ trong ấy bay ra. Đến đội xe, anh vẫy tay ra hiệu gọi Mi-rếc. Họ kéo nhau đến một gốc cây sồi đang độ lá vàng để tránh những chuyến xe ra vào sân nhà máy.
          - Đã lâu tôi không đến tìm anh. Hôm nay có việc muốn nhờ, anh có nhận không ?
          - Người ta bảo anh về nước rồi cơ mà ?
          - Đúng là tôi đang chuẩn bị về. Anh có thể giúp tôi không ?
          - Là việc gì, như mọi khi à ?
          - Như mọi khi, đi chở hàng cho tôi.
          - Dạo này công an kiểm tra gắt gao lắm, ở đâu cũng thấy công an. Người ta bảo công an ra đường là để ngăn biểu tình nhưng tôi vẫn thấy sợ.
          - Anh có được mời đi biểu tình không ?
          - Công nhân như chúng tôi chẳng quan tâm.
          - Vậy đi giúp tôi một chuyến nhé.
          Mi-rếc lưỡng lự hỏi :
          - Anh nói cụ thể xem sao ?
          - Thế này, khoảng 11 giờ sáng mai anh đến số nhà 1175 phố Mút-xtếc, sẽ có người đợi để dẫn anh đi lấy hàng. Anh cứ nói lấy hàng của ông Gô-ren, nhận đủ rồi anh chở ngay về  quảng trường trước siêu thị Nô-vô Séc ở Pra-ha 4, chỗ này đông người đông xe, không ai để ý. Tôi sẽ đợi anh ở đó. Anh Mi-rếc biết chỗ này chứ ?
          Mi-rếc cười :
          - Biết, đó là chuyên môn của cánh lái xe chúng tôi. Anh có thể nói cho tôi là hàng gì không ?
          Hơi ái ngại nhưng rồi Bùi Khoái cũng nói thật cho Mi-rếc :
          - Đó là 1200 cái ra-đi-ô để lắp vào ô tô. Cố gắng kín đáo nhé.
          - Tất nhiên rồi.-Mi-rếc nhún vai nói.
          - Anh có thể ước lượng đi từ phố Mút-xtếc đến siêu thị Nô-vô Séc mất khoảng bao lâu ?
          - Gần một tiếng nếu đường vắng.
          - Vậy tôi đợi anh vào lúc 12 giờ trưa ở công viên, thế được không ?
          - Được.
          Trong những lần chở hàng trước đây Bùi Khoái chỉ trả cho Mi-rếc 500 hoặc 600 cu-run sau khi đã hoàn tất. Lần này anh lấy từ trong cặp đíp-lô-mát ra hẳn 1000 cu-run đưa cho Mi-rếc.
          - Tiền công của anh đây. Đây là chuyến hàng cuối cùng nên tôi trả trước cho anh, tất nhiên là cao hơn.
          Mi-rếc vui vẻ cầm tiền đút gọn vào cái túi rộng hoác của chiếc quần công nhân màu xanh.
          - Ồ, chuyến cuối cùng à ! Cám ơn Bùi Khoái.
          Sáng hôm sau, mới khoảng 9 giờ, khi ngoài trời còn sương mờ, Bùi Khoái đã thấy trong lòng như có lửa đốt. Anh muốn đi ra nhưng phần vì chưa đến giờ hẹn, phần khác còn phải nấu cái gì ăn cho chắc bụng. Bùi Khoái lấy trong tủ lạnh  một cái đùi gà, chặt thành mấy miếng rồi bật bếp, xào lên với hành tây, đổ nước vào đun sôi, mùi hành và thịt bốc lên thơm phức. Anh lại với trên tủ bếp lấy ra gói mỳ thả vào, đun lên một lúc nữa bắc xuống, thế là được món đủ chất, dễ làm, nhất là ngon miệng mà lại rẻ. Bùi Khoái còn không đổ ra bát, cứ để mỳ trong cái xoong tráng men cho nguội rồi lấy thìa xúc. Xong bữa cũng mới có 10 giờ nhưng chẳng lẽ cứ ngồi nhà nhìn đồng hồ nên anh ta vẫn xách cặp đi đến chỗ hẹn. Đến nơi  mới gần 11 giờ, Bùi Khoái vào cửa hàng tu-dếch gần đó lượn một vòng, ngắm  quầy bán thuốc lá 555 và Man-bô-rô, quầy bán rượu, từ rượu vang đến các loại uýt-ky, cô-nhắc…Khách mua hàng là mấy người da đen, mấy người châu Á dáng chừng như Trung Quốc. Họ bê ra hàng thùng rượu, hàng thùng thuốc lá. Thừa biết những thùng hàng này rồi cũng ra chợ đen. Bùi Khoái chỉ lượn để giết thời gian, anh không có tiêu chuẩn mua hàng ở đây. Ngắm mỗi quầy một tí rồi đi ra cũng vừa 11 giờ 30, mặt trời đầu mùa đông gần đứng bóng trên quảng trường nhỏ. Đàn chim bồ câu chen chúc nhau lượn đến sát những người ngồi phơi nắng, thong thả nhặt những mẩu vụn bánh mỳ. Bùi Khoái đã quá quen với cảnh tượng thanh bình này và thường hỏi bao giờ chim câu ở Việt Nam mới có thể an toàn kiếm ăn bên cạnh con người.
          Bùi Khoái thong thả bước như một người đi dạo, thực ra anh đang liếc mắt nhìn chung quanh. Không thấy bóng dáng công an. Yên tâm, anh ta dừng lại mua tờ báo “Buổi chiều” rồi đứng bên cạnh quầy, lẫn vào những người qua lại. Anh ta cầm tờ báo trên tay nhưng không đọc, mắt chăm chú dõi theo từng chuyến xe đi qua quảng trường, tất nhiên đều phải là xe tải. Bùi Khoái đã đếm được 10 rồi 21, 61, 62 chiếc mà vẫn không thấy chiếc nào dừng lại. Cứ một chốc Bùi Khoái lại sốt ruột nhìn đồng hồ. Đã 13 giờ 10 phút. Nắng rất dịu mà Bùi Khoái vẫn lấm tấm mồ hôi. Anh ta xải những bước dài nôn nóng, bất thình lình vấp phải một bà người Tiệp đang xách làn táo, làm rơi cả mấy quả táo ra đường. Bùi Khoái giật bắn mình, hoảng hốt nói xin lỗi, vội vàng nhặt táo rơi.
          - Tôi vô ý quá, tôi thành thật xin lỗi bà.
          Bà người Tiệp nhận lại mấy quả táo, rối rít nói :
          - Không sao, không có gì. Tôi thấy rõ là anh đang rất vội. Tôi có thể giúp gì được cho anh không ?
          - Cám ơn bà nhiều, tôi chỉ đang đợi bạn đến đây thôi.
          - Vậy thì tốt rồi, chúc anh một buổi chiều tốt lành.
          - Bà cũng vậy, cám ơn bà.
          Bùi Khoái chỉ muốn mau chóng chấm dứt cuộc chuyện trò bất đắc dĩ để còn tập trung ngóng xe của Mi-rếc, tuy nhiên đã 1 giờ 30 chiều mà Mi-rếc vẫn bặt tăm. Đã chậm so với giờ hẹn hơn một tiếng đồng hồ. Có tắc đường cũng không thể chậm như thế. Chắc chắn đã có chuyện xảy ra. Là chuyện gì ? Trong đầu của anh chàng buôn lậu vẩn lên khả năng bị công an kiểm tra và giữ hàng. Điều này hoàn toàn có thể tuy ngày hôm nay, như Bùi Khoái nhận xét, không thấy bóng dáng công an như thường lệ. Hơn nữa nếu có bị giữ hàng thì tự Mi-rếc cũng biết cách phải làm thế nào. Trong những lần trước, biết Mi-rếc là đảng viên, Bùi Khoái đã mách cho anh ta một mánh khóe, đi nhận hàng cứ mang theo thẻ đảng, hễ gặp công an kiểm tra thì giơ thẻ đảng ra, thế nào cũng được tha.Thời gian nặng nề trôi, Bùi Khoái ngóng đợi mỏi mắt mà không thấy xe về. Không chịu đựng được hơn nữa, anh bắt tắc-xi đến phố Mút-xtếc. Xe đỗ trước số nhà 1175, Bùi Khoái nhảy xuống nhìn quanh ngơ ngác. Hoàn toàn không có động tĩnh gì, phố xá vẫn yên tĩnh, người qua lại vẫn nhộn nhịp. Số 1175 chỉ là một cửa hàng nhỏ bán hoa quả. Đứng trước cửa hàng này Bùi Khoái mới nhớ ra anh ta đến đây chẳng qua vì quá nôn nóng chứ làm sao có thể bấu víu vào một điểm hẹn trời ơi thế này. Thấy có người đứng lơ vơ trước cửa hàng, cô mậu dịch viên thò đầu ra hỏi :
          - Anh cần mua gì, có táo đỏ mới về ngon lắm !
          Bùi Khoái nhân tiện hỏi lại luôn :
          - Cám ơn cô, tôi không mua gì, nhưng cô có thể giúp tôi một việc được không ?
          - Anh cứ nói.
          - Khoảng gần 11 giờ sáng nay cô có thấy một chiếc xe tải nhỏ đỗ lại trước cửa hàng không ?
          Cô mậu dịch viên nghênh mặt nhớ lại rồi ồ lên vui vẻ :
          - Có đấy, người lái xe còn đứng ngay chỗ kia hút thuốc. Nhưng anh ta lái xe đi lúc nào tôi cũng không để ý, lúc ấy khách mua hàng đông lắm.
          Bùi Khoái biết ngay người đứng hút thuốc là Mi-rếc, anh này vẫn đứng hút thuốc như thế dưới gốc cây sồi trong nhà máy. Vội vàng chào cô gái rồi quay ra, Bùi Khoái mang nặng một nỗi lo lắng, bỗng thấy có chút vân vi về Mi-rếc. Không, không thể có chuyện gì đến từ phía con người này được. Đã có lần Mi-rếc xách hẳn một túi đồng hồ của Bùi Khoái để sót trên xe đến trả cho anh. Anh ta là một đảng viên cộng sản tốt, không bia rượu, không gái gú. Lồng đến nhà máy tìm không thấy, Bùi Khoái nghĩ chỉ còn một chỗ nữa, đó là một bãi xe vắng ở Pra-ha 6, là nơi trước đây Mi-rếc đã mấy lần trả hàng. Có thể Mi-rếc nghe nhầm từ Pra-ha 4 sang thành Pra-ha 6 chăng. Nghĩ vậy Bùi Khoái lại vội vàng bắt xe phóng đi, bây giờ thì mồ hôi đã vã ra ướt áo chứ không còn lấm tấm nữa. Đến bãi đỗ, trống ngực Bùi Khoái đập rộn ràng khi trông thấy chiếc xe quen thuộc của Mi-rếc trong bóng mát dưới một gốc cây, thùng xe trống không, bạt xe đã được xếp lại gọn gàng. Không thấy chủ xe đâu. Đang bối rối thì có người từ phía sau vỗ lên vai làm Bùi Khoái giật nẩy mình. Quay lại thấy Mi-rếc. Anh mừng quýnh, reo hú lên :
          - Trời ơi, Mi-rếc đây rồi. Tôi đã tìm anh hơn một tiếng đồng hồ, đến cả phố Mút-xtếc, cả nhà máy, may quá lại nghĩ ra chỗ này.
          Mi-rếc buồn bã đến thiểu não.
          - Hỏng rồi, mất hết rồi. Hàng bị công an tịch thu hết.
          Nghe thế Bùi Khoái bủn rủn, hai chân muốn khụy xuống.  
          - Mi-rếc, anh đừng có đùa ác tôi như thế. Mất hết rồi là thế nào ?
          - Không đùa.  
          - Tại sao anh lại ra bãi xe này ?
          Với một giọng điệu tiếc nuối đến thảm hại, Mi-rếc kể :
          - Pra-ha 4 hôm nay có rất nhiều công an kiểm tra, tôi đã phải tránh đường để sang Pra-ha 6 về bãi xe này. Không ngờ về tới đây thì một tốp người ập đến, họ tự nhận là công an, đòi kiểm tra hàng rồi tịch thu, đem đi hết. Tôi đã nói không phải hàng của tôi, đã cố xin mà không được.
          Mặt Bùi Khoái tái đi, cơn thịnh nộ bốc lên bóp nghẹt lấy tim bỗng chốc chuyển thành nỗi đau đớn quá sức chịu đựng, mồ hôi vã ra liên hồi, người run lên bần bật khiến Mi-rếc trông thấy phát hoảng mà nhanh chóng đứng lùi lại 2 bước.
          - Anh có làm sao không ?
          Bùi Khoái nói trong hơi thở gấp :
          - Tôi đợi anh từ 11 giờ ở Pra-ha 4, có thấy công an đi kiểm tra đâu. Đi tìm anh ở khắp nơi, đến phố Mút-xtếc, vào cả nhà máy, ở đâu cũng thấy rất an toàn.
          Mi-rếc đổi ngay thái độ, tỏ ra tức giận nhiều hơn tự ái :
          - Anh nghi ngờ tôi đấy à, định đổ trách nhiệm cho tôi hay sao ?
          Chính sự thay đổi thái độ một cách nhanh chóng của Mi-rếc đã làm mối nghi ngờ trong lòng Bùi Khoái  bật lên như chiếc lò xo. Nhìn xoáy vào mặt Mi-rếc, Bùi Khoái thấy vẻ hoảng hốt pha màu sắc tức giận kia phơi lộ ra một cái gì không thật khiến anh ta bột phát tuột ra miệng :
          - Tôi thuê anh chở cho tôi, anh để hàng mất thì phải đền lại.
          Mi-rếc lấy lại bình tĩnh, trả lời :
          - Anh nói lạ. Hàng của anh là hàng lậu, bị công an tịch thu thì anh phải chịu chứ làm thế nào. Người còn chưa bị bắt là may lắm rồi, tôi chẳng qua chỉ chở thuê, biết anh có cái gì !
          Bùi Khoái không hiểu Mi-rếc nói người còn chưa bị bắt là ám chỉ người chở hàng hay người chủ hàng. Đối với một kẻ có thân phận “hộ tịch pháp” như Bùi Khoái mà chưa bị bắt đúng là may mắn. Tuy nhiên có một thứ linh tính nào đấy mách bảo Bùi Khoái rằng tác giả vụ mất mát này không ai khác ngoài Mi-rếc, anh ta muốn nhân cơ hội Bùi Khoái sắp về nước mà làm một vố. Chính là mắt nhìn của Mi-rếc đã làm cho Bùi Khoái có mối nghi ngờ này, đôi mắt nâu của Mi-rếc chưa bao giờ nhìn Bùi Khoái mà lại lúng túng, bối rối như hôm nay. Tuy nhiên, ngoài ánh mắt thoáng vẻ gian dối ấy thì không có cái gì để khẳng định Mi-rếc là người lấy hàng. Số hàng mất quá lớn làm cho Bùi Khoái uất ức lồng lên như một con bò điên. Bỏ mặc Mi-rếc lại, anh ta chạy bổ đến nhà Zđen-nếc kể lại cho ông ta toàn bộ câu chuyện. Zđen-nếc gọi điện cho Gô-ren nói gì đó rồi quay lại Bùi Khoái, thái độ khác hẳn những lần gặp trước, lạnh lùng :
          - Gô-ren bảo nếu bị công an bắt, anh ấy có thể can thiệp được. Tuy nhiên cả 2 chúng tôi đều không nghĩ công an làm việc đó trong tình hình hiện nay. Họ đang có nhiều việc khác phải làm hơn là đi bắt mấy anh buôn lậu. Chúng tôi cho rằng hàng đã bị mất một cách có tính toán. Thật sự là có uẩn khúc gì đó trong việc này.
          Bùi Khoái rú lên :
          - Uẩn khúc gì ? Làm sao các anh có thể nghi ngờ cả tôi ?
          Zđen-nếc nhún vai. Bày ra chiêu trò mất hàng đối với một người đang trong cơn túng quẫn là một điều dễ hiểu.
          - Tôi coi anh là bạn, đã cho anh mượn tiền. Làm phi vụ này cũng để tạo điều kiện giúp thêm cho anh. Nay sự việc đã vậy thì đương nhiên anh phải mau chóng tìm cách hoàn lại tiền và hàng cho chúng tôi.
          Bùi Khoái quá uất ức tới mức quẫn trí. Anh ta chạy đến đập thình thình vào cửa một chủ hàng người Triều Tiên, anh này để nguyên quần đùi áo may ô chạy ra trời rét.
          - Chào Bùi Khoái, có chuyện gì mà trông anh tức giận ghê ghớm thế này ?
          - Tôi có vấn đề. Anh cho tôi mượn khẩu súng lục của anh !
          - Khẩu súng hôm nọ tôi khoe với anh ?
          - Đúng rồi.
          - Anh định giết ai hay sao ?
          - Không, chỉ để dọa thôi.
          - Thế thì được, bởi vì súng của tôi chỉ là súng hơi cay. Tuy vậy nếu công an dớ được thì cũng vẫn là bất hợp pháp.
          Bùi Khoái cầm khẩu súng hùng hổ đến gọi Mi-rếc, chĩa thẳng vào người anh ta, trợn mắt lên quát :
          - Mi-rếc, anh không chỉ cho tôi số ra-đi-ô đó đang giấu ở đâu thì tôi sẽ bắn vỡ đầu anh.
          Không ngờ Mi-rếc bình tĩnh tiến đến tóm lấy tay Bùi Khoái, gỡ khẩu súng  ra và cả cười :
          - Này anh bạn Việt Nam, không nể anh đã là bạn trong cùng nhà máy, không có lòng yêu mến Việt Nam của các anh thì tôi đã báo công an bắt anh rồi. Trong lúc tôi còn chưa nổi điên lên thì anh hãy mau cút đi.
          Trước khi quăng trả Bùi Khoái, Mi-rếc còn giơ khẩu súng lên soi rồi cười chế nhạo :
          - Thứ này mà đem nộp công an thì hay phải biết !
          Tốt nhất là không để những chuyện thế này dính vào với công an, Bùi Khoái lặng lẽ rút đi trong nỗi tủi nhục ê chề. Tuy nhiên bản tính bướng bỉnh kiên cường của anh ta chưa chịu đầu hàng. Bùi Khoái biết những chủ hàng lớn như Gô-ren nếu không phải ma-phi-a thì cũng có quan hệ với ma-phi-a. Bùi Khoái quyết định quay lại tìm Gô-ren, nài nỉ anh ta can thiệp. Thấy Bùi Khoái vật vã trong đau khổ và thất vọng, Gô-ren nghĩ chắc anh này đã bị lừa mất hàng thật. Động lòng, ông chủ hàng người Nam Tư gọi cho Zđen-nếc rồi cùng nhau ba người trèo lên chiếc Mốt-cô-víc đến tìm Mi-rếc. Đã thấy cơn thịnh nộ của Bùi Khoái lúc nãy, giờ thấy anh ta quay lại với hai người bản địa to cao, Mi-rếc tỏ ra chột dạ, không còn giữ được bình tĩnh như lúc một mình đối mặt với Bùi Khoái. Gô-ren chủ động bắt tay Mi-rếc, bóp mạnh như để nhắc nhở anh ta một điều gì. Vẫn bằng thứ tiếng Tiệp ngọng ngịu, Gô-ren dằn giọng :
          - Anh hãy đi với chúng tôi để làm cho rõ vụ chở hàng.
          Mi-rếc biết đây là những người không dễ từ chối nên buộc phải chấp nhận.
          - Đi đâu ?
          - Mời anh ra hiện trường, chỗ bãi xe.
          Cả 4 người leo lên chiếc Mốt-cô-víc của Go-ren đi đến hiện trường, trên xe không ai nói với ai điều gì, chỉ có Bùi Khoái thở phì phò vì vừa mệt mỏi vừa uất ức. Đến nơi, họ đứng quây lại với nhau. Gô-ren đề nghị Bùi Khoái kể lại toàn bộ câu chuyện. Vừa nghe Bùi Khoái kể, Mi-rếc vừa phải chịu đựng 4 con mắt nhìn soi mói của Gô-ren và Zđen-nếc, chẳng khác nào như 4 ngọn đèn cao áp đang muốn lột trần anh ta. Khi câu chuyện của Bùi Khoái kết thúc, Gô-ren kéo Mi-rếc vào xe, đóng cửa lại, bỏ mặc Bùi Khoái đứng với Zđen-nếc ở bên ngoài.
          - Họ vào xe làm gì anh Zđen-nếc ?
          - Họ làm việc của họ. Mình chỉ việc đợi thôi.
          Bùi Khoái không thể đứng yên một chỗ mà cứ xách chiếc cặp đi lại. Zđen-nếc cười nói :
          - Anh đi lại nhiều quá, chóng cả mặt.
          - Làm sao tôi có thể ngồi yên được. Không tìm ra số hàng này thì tôi không chỉ mất tiền mà còn mất hết cả danh dự với các anh.
          Không biết Gô-ren đã nói và làm những gì mà 20 phút sau thấy 2 người mở cửa xe bước ra, Mi-rếc cúi gằm mặt, mồ hôi vã trên trán. Gô-ren tươi cười nói :
          - Tìm thấy rồi. Mi-rếc đã nhận.
          Sự nghi ngờ lẫn nhau giữa ba người bạn vừa được rũ bỏ, Gô-ren và Zđen-nếc thông cảm, vui mừng ôm lấy Bùi Khoái. Họ bỏ mặc Mi-rếc lủi thủi một mình, kéo nhau ra cửa hàng Lu-xe-rơ-na ở trung tâm liên hoan, bia rượu uống không còn biết gì cho đến sáng. Trong lúc say bí tỉ, Bùi Khoái vẫn luôn mồm lải nhải :
          - Làm sao một người như Mi-rếc lại thay đổi đến mức lừa cả bạn mình  cơ chứ !
                                                                       
         Chương 7

         
          Từ ga Trung tâm Bích Ngọc đón xe buýt số 119 để về khu nhà của Bùi Khoái. Liếc nhìn đồng hồ trên tay thấy đã quá 3 giờ chiều, Bích Ngọc thật vui khi nghĩ rằng giờ này Bùi Khoái cũng đang ở nhà. Cô sẽ gõ cửa 3 tiếng, nhẹ và cách đều, giống như lần đầu cô gõ cửa phòng anh, khi mở cửa ra, Bùi Khoái sẽ ngạc nhiên thích thú thấy Ngọc. Anh sẽ phá lên cười phớ lớ rồi kéo cô vào ôm chặt lấy mà hôn. Với Bích Ngọc, Bùi Khoái có cái hôn thật mê mị, ngồi trên tàu nghĩ đến lúc hôn nhau cô đã rủn cả người. Thế nhưng khi xách được chiếc túi đồ to tướng lên gác 2, đến trước cửa phòng, cô thất vọng thấy chiếc khóa cửa mầu đen nặng nề khóa im ỉm bên ngoài. Bích Ngọc ngán ngẩm rút chiếc khăn mùi xoa màu xanh nhạt thấm mồ hôi lấm tấm trên trán rồi lần tìm chiếc chìa khóa để trong đáy ví. Đây là chiếc chìa Bùi Khoái đã đánh thêm cho Bích Ngọc để mỗi khi anh đi vắng cô có thể tự mở cửa. Bước vào nhà, Bích Ngọc thấy ngay cảnh bừa bộn của người đàn ông sống một mình. Đống quần áo đợi giặt vứt lộn xộn ở cuối giường bốc lên mùi hôi thật khó chịu. Hai ba cái bát ăn cơm, một chiếc xoong men, mấy cái thìa vẫn để chỏng trơ trong chậu rửa, mấy hạt cơm vương vãi khô rắn rơi bên cạnh chai bia không lăn lóc ở góc phòng. Phần diện tích còn lại như thường lệ có dăm bảy bịch hàng lớn được xếp chật chội chồng lên nhau. Bích Ngọc cởi chiếc áo khoác ra treo lên thành ghế rồi bắt tay vào dọn nhà, trước tiên là rửa sạch đống bát đĩa rếch. Rồi cô lấy rẻ lau phần nhỏ hẹp còn lại của sàn nhà. Lau nhà xong, cô mở túi đồ lôi ra các thứ đem theo. Cô đã có ý định làm cho Bùi Khoái một bữa nem rán nên sắp sẵn đủ cả, một thếp nem gạo, một bó miến, gói mộc nhĩ là những thứ khi sang cô đã mang theo, cách đây gần một năm rồi nhưng ít có dịp đem ra dùng. Trong tủ lạnh của Bùi Khoái thấy có miếng thịt ba chỉ và mấy củ hành tây to, Bích Ngọc lôi cả ra làm nhân, cuộn nem. Chỉ một lúc sau cả gian phòng đã sực nức thơm  mùi nem rán. Đang đảo nốt mấy chiếc cuối cùng trên chảo bỗng Bích Ngọc nghe có tiếng gõ cửa, chạy ra thấy ông già chủ nhà nhòm hẳn vào trong phòng. Ông hít hà cái hơi thơm của nem rán và hỏi :
          - Chào cô, có phải mùi  nem rán không ?
          - Vâng, tôi đang rán nem. Sao ông biết ?
          - Thơm quá. Bùi Khoái đã cho tôi ăn nem, tôi thích lắm. Cô cho tôi mấy chiếc được không ?
          - Được chứ. Ông đợi chút nhé.
          Bích Ngọc mau mắn lấy giấy bạc gói cho ông 5 chiếc. Cầm gói nem còn nóng trên tay, ông ta cám ơn rối rít.
          - Thế này là tôi đã có bữa chiều ngon lành. Chắc ở Việt Nam cũng như ở Tiệp, phải có phụ nữ mới được ăn ngon. Bùi Khoái nó chỉ ăn xúp với bánh mỳ suốt cả tuần. Còn tôi chỉ cần uống bia, ha ha !
          Món xúp mà ông già nói tới chính là món mỳ nấu với nước xương mà Bùi Khoái ăn quanh năm. Sau khi rán nem xong, Bích Ngọc ra ghế ngồi đợi, lần mần bật vô tuyến lên xem. Đây là cái vô tuyến cũ người ta vứt ngoài đường, Bùi Khoái bê về  dùng, tiếng bị rè, màn hình có nhiều muỗi. Thấy thế Bích Ngọc liền tìm cái tuốc-nơ-vít để chỉnh hình, chỉnh tiếng, xoay xoay vặn vặn một lúc quả nhiên chất lượng tốt hơn hẳn.        Chữa vô tuyến là sở trường của Bích Ngọc bởi cô chính là một kỹ sư vô tuyến điện. Xem vô tuyến đến chương trình thời sự lúc 6 giờ chiều thì cửa bật mở, Bùi Khoái chưa vào phòng đã rộn rã.
          - Anh đi đường cứ hắt hơi suốt. Biết ngay hôm nay có khách quý.
          Bích Ngọc đứng lên với cái áo định khoác vào thì Bùi Khoái giật lại.
          - Việc gì phải mặc, người đẹp thế này phải đem khoe ra chứ.
          Nói rồi anh ta quăng cái cặp lên giường, vội vàng ôm lấy Bích Ngọc. Cô để anh hôn nhanh rồi gỡ tay ra.
          - Từ từ đã, để ăn uống xong. Vả lại em đã tắm đâu, người hôi rình.
          - Ừ, người em toàn mùi nem. Hôm nay được ăn nem à ? Đặc biệt thế !
          Lúc này Bích Ngọc mới để ý thấy Bùi Khoái không đội cái mũ nồi đỏ mà đội trên đầu cái mũ len mỏng màu cà phê sữa. Cô bật cười hỏi :
          - Trời đã rét lắm đâu mà anh  chụp mũ len ?
          - À, đấy là một biện pháp ngụy trang để tự vệ. Dạo này bọn phủi hoạt động dữ lắm, cứ thấy đầu đen là chúng gây sự, có khi đuổi đánh, rất nguy hiểm. đội mũ này để che cái đầu đen đi.
          - Bọn phủi là bọn nào hả anh ?
          - Là bọn đầu trọc, bọn phân biệt chủng tộc. Dân mình toàn gọi chúng nó là phủi.
          - Anh đã gặp chúng nó lần nào chưa ?
          - Một hai lần rồi, nhưng anh chạy thoát. Không hiểu tại sao thời gian này chúng nó ở đâu mọc ra nhiều thế, rất hung hăng. Thôi, em đi tắm đi rồi cho anh ăn nem, sau đó anh cho em ăn chả-Bùi Khoái cười vỡ lên. Bích Ngọc lườm anh, miệng cười để lộ ra chiếc răng khểnh  xinh xắn :
          - Cái anh này thật vô duyên.
          Sáng hôm sau họ dậy khá muộn, thoải mái và vui vẻ. Mỗi lần gặp Bùi Khoái, Bích Ngọc thường mỉm cười một mình, nhớ lại lần đầu, khi cô đến tìm anh vào buổi tối, hai người nhất định nhường nhau cái giường, ai cũng tranh ngủ dưới đất. Bùi Khoái đưa sáng kiến oản tu ti 3 lần, anh ta thắng 1, Bích Ngọc thắng 2, vậy là Bùi Khoái lấy cái gối và ôm cái áo khoác ngủ dưới. Bích Ngọc nằm trên giường không dám thở mạnh trong khi Bùi Khoái giẫy xoành xoạch, liên tục dậy đi toa-lét. Cuối cùng đến nửa đêm, Bích Ngọc đành nhỏm dạy bảo anh lên giường ngủ chung. Không ai chợp mắt được, nằm sát cạnh nhau, cảm nhận rõ hơi nóng của thân thể mỗi người, biết rõ người nằm cạnh thở rất gấp, ngực phập phồng, vậy mà đã không có chuyện ấy, thế mới thật lạ. Có thể vì Bùi Khoái nhớ tới lời nhắn gửi của Lê Thành rằng anh phải nương nhẹ với Bích Ngọc. Có thể vì Bích Nhọc đã rỉ rả suốt đêm kể về thời gian 3 năm cô phải chịu 4 cái tang, giọng kể lúc thì thoát nhẹ, lúc u uất nặng nề. Cô không phải là người có những mơ ước và khát khao to lớn, chỉ mong một cuộc sống bình thường và yên ả, không bon chen với ai, không phải suy nghĩ nặng đầu. Lẽ ra cô kỹ sư điện trẻ tuổi đã có một cuộc sống như thế nếu như những tai họa không bỗng dưng dồn dập như những đợt sóng dữ nhấn chìm cuộc đời cô. Đứa con trai vừa được hơn một tuổi thì chồng cô mắc bệnh xơ gan, những ổ kén trong gan mau chóng biến thành ung thư và sau đó không lâu đã qua đời. Người em trai chồng cô tận tình chăm sóc ông anh không may lại lây nhiễm, gày còm ốm yếu dần rồi bất thình lình đi theo ông anh. Tiếp theo là 2 cái tang ập xuống, một của mẹ cô và một của bố chồng. Rộ lên lời đồn nhảm nhí là nhà Bích Ngọc có trùng tang, nếu không vì đứa con lúc ấy mới 4 tuổi thì chưa chắc gì Bích Ngọc đã gượng dậy được. Những bất hạnh dồn dập ấy đã biến Bích Ngọc thành một người nhanh nhẹn  nhưng hay lo lắng với những cảm giác bất an.
          - Mẹ em chết rồi thì không còn ai gọi em là Cún của mẹ nữa-Bích Ngọc buồn rầu kể. Bỗng nhiên em trở thành bơ vơ quá, không có đứa con thì anh bảo em làm sao mà sống được.
          Nghe rặt những chuyện buồn đau như thế chẳng còn lấy hứng đâu mà làm tình. Sau này khi hai người đã quen thân, chuyện ấy mới đến một cách tự nhiên và mê muội.
Vì có Bích Ngọc là khách đặc biệt nên Bùi Khoái chạy ra ngoài mua bánh sừng bò với sữa tươi về ăn sáng, vừa ngồi ăn vừa nói chuyện dông dài.
          - Ăn xong anh lại phải đi. Sắp về nước, tiền ít, phải cố gom hàng nên cũng mệt.
          - Bao giờ anh về ?
          - Đáng lẽ về rồi nhưng sau vụ mất của, anh cứ phải dây dưa để kiếm thêm. Đến tháng 12 được nhiều được ít cũng về.
          - Anh về thì em buồn lắm, lên đây không biết bấu víu vào ai.
          - Yên tâm đi, anh sẽ gửi em cho mấy người quen. Có điều làm ăn độ này hơi khó, công an đi lại nhiều, sinh viên biểu tình lắm, bọn phủi hoạt động dữ dội.
          - Ở dưới Kô-xi-xe mấy đứa bạn em cũng nói các nước chung quanh như Đức, Ba Lan người ta biểu tình ghê lắm. Liệu ở đây họ có làm thế không ?
          - Biết sao được. Mà anh cũng  mặc kệ. Điều quan tâm nhất bây giờ là vớt vát được chút ít rồi chờ-uôn-chuôn-huyền-chuồn !
          Chưa đâu mà Bích Ngọc đã thẫn thờ nhắc lại :
          - Anh về rồi thì em buồn lắm.
          - Việc gì phải buồn ! Xinh đẹp như em thì có anh khác thay thế ngay ấy mà. Lại oản tu ti để ngủ chung !
          Bích Ngọc tức giận lườm Bùi Khoái, với tay véo tai anh ta.
          - Anh thật vô duyên. Anh tưởng với ai cũng thế được à !
          Bùi Khoái khoái chí :
          - Tại sao với anh lại như thế được ?
          Bích Ngọc nhảy đến ôm lấy đầu Bùi Khoái mà vò, như vò đầu một đứa trẻ con, hét lên :
          - Rõ vô duyên.
          Bùi Khoái cười trừ, chụp cái mũ len màu cà phê sữa lên đầu che kín mớ tóc đen bóng, khoác thêm cái áo bò màu xanh, không quên hôn vội Bích Ngọc rồi đi ra. Bích Ngọc hỏi với :
          - Mấy giờ anh về ?
          - Không quá giờ mùi.
          - Tức là mấy giờ ?
          - Quá đầu giờ chiều một tí.
          - Tranh thủ về sớm còn đóng hàng cho em, em  đi tàu đêm về Kô-xi-xe.
          - Hàng có sẵn rồi, anh sẽ đưa ra tàu, cứ yên chí.
          Bùi Khoái vừa bước những bước dài vừa nói với lại. Còn một mình, Bích Ngọc cài cửa rồi nằm dài ra giường lơ mơ ngủ vì tối hôm qua hai người đã lục xục khá khuya. Đang thiu thiu, cô bỗng nghe có tiếng gõ cửa. Nhỏm dậy nhìn đồng hồ mới có 11 giờ, vậy không phải Bùi Khoái về. Lại có tiếng gõ cửa, lần này có thêm tiếng một người Việt :
          - Anh Khoái ơi, em là Thịnh đây, em đang có việc cần.
          Nghe nói thế, Bích Ngọc đứng lên, vớ chiếc lược ở đầu giường chải vội mái tóc rồi đi ra. Cô chỉ định hé cửa để nói rằng anh Khoái đi vắng, đầu giờ chiều mới về, nhưng vừa rút then thì cách cửa bị đẩy bật tung vào trong, xô cô ngã dúi. Chưa kịp hoàn hồn đã có đứa ôm ghì lấy Bích Ngọc để cho một đứa khác cũng to khỏe nhét rẻ vào đầy mồm rồi lấy dây dù trói tròn cô lại như gói giò, xong đẩy cô ngồi xuống giường. Ba kẻ lạ mặt nhanh chóng chuyển hết những kiện hàng của Bùi Khoái ra ngoài, một đứa lục túi lấy số tiền Bích Ngọc để trong đó. Vừa làm tụi này vừa nói với nhau bằng một thứ tiếng Tiệp rất nhanh mà Bích Ngọc nghe không thủng. Cô lơ láo bất lực nhìn chúng, người run lên từng đợt, tuy vậy cũng nhận ra những đứa này toàn là người châu Âu, chỉ có một người Việt vừa cao vừa gầy, chính người này đã lục túi của cô. Chúng đã dọn sạch hàng chỉ trong một khoảng khắc rất ngắn rồi rút đi, bỏ Bích Ngọc ú ớ ngồi lại.
          Quá trưa Bùi Khoái trở về, kinh ngạc thấy chìa khóa cắm ở bên ngoài. Lúc đầu anh còn nghĩ có thể Bích Ngọc đi đâu vội, khóa cửa mà quên rút chìa. Đẩy cửa bước vào, Bùi Khoái vô cùng hoảng hốt trước cảnh tượng tan hoang, trống trơn. Anh vội vàng cắt dây trói cho Ngọc, dỗ dành cô, tinh thần Bích Ngọc mau chóng ổn định trở lại. Cô bật khóc :
          - Đấy là bọn nào mà ghê gớm thế anh ? Em chỉ sợ chúng giết em.
          - Chắc chúng nó là bọn trấn lột.
          Hai người ngồi rũ cạnh nhau, uất hận và tủi nhục. Bùi Khoái xòe hai bàn tay ra nói :
          - Thế là hết nhé, thực sự không còn gì.
          Chiều tối hôm ấy Bùi Khoái đưa Bích Ngọc ra ga về Kô-xi-xe tay không, tiền không còn, hàng không có. Anh trở về nhà lẻ loi ngồi úp mặt ngẩn ngơ. Đúng là Bùi Khoái đã bị đẩy đến đường cùng. Khi chấm dứt hợp đồng với nhà máy, người ta đã thu lại hộ chiếu của anh để lấy vé về nước. Không làm cho nhà máy, không có hộ chiếu, anh ta trở thành người “hộ tịch pháp”. Đôn đáo gom hàng để có tiền trả nợ thì hàng liên tục bị  mất sạch, mấy người chủ nợ ráo riết truy tìm, kể cả người bạn tốt Zđen-nếc. Trong khi đó, Sứ quán thường thông qua mấy người công nhân trong nhà máy nhắn gọi anh đến làm thủ tục về nước. Lại đúng lúc không biết bọn đầu trọc ở đâu bỗng xuất hiện rất nhiều, bài xích, tấn công người nước ngoài ráo riết, rộ lên tin đồn ở Bô-hơ-nhít-xe Pra-ha 10 vừa có một người châu Á bị chúng giết chết, nghe như đấy là một người Việt Nam. Những người Việt ở một khu tập thể vì sợ bọn đầu trọc khủng bố nên đã chuyển hết từ tầng thấp lên tầng cao để ở. Những tin đồn kiểu này khiến Bùi Khoái rất sợ phải lộ cái đầu đen của mình ra. Đang quẫn bách thì anh ta nhận được điện thoại của Pa-ven Ka-đê-ra-bếc.
          - Bùi Khoái, anh có mấy bức thư gửi từ Việt Nam, đã để ở nhà máy gần một tháng nay rồi. Anh có vào lấy được không ?
          Thì ra vẫn còn người nghĩ đến mình. Bùi Khoái nói :
          - Có, tôi phải vào lấy chứ.
          - Vậy thì tốt. Nhớ ghé chỗ tôi uống cà phê nhé.
          Bùi Khoái vào lấy thư nhưng không ghé chỗ Pa-ven. Có 3 bức thư, 2 bức của Thanh, 1 bức của người anh trai Bùi Khoai. Nghĩ rằng chỉ là chuyện thăm hỏi thông thường, cũng có thể là việc nhờ mua hàng như mọi khi nên Bùi Khoái bỏ cả vào cặp. Tối về đọc, Bùi Khoái rụng rời, không ngờ đó là những bức thư báo tin bố anh đã qua đời. Bùi Khoái cắn môi để khỏi bật ra nức nở, gượng đọc thật kỹ, mặc cho nước mắt lã chã rơi. Bức thứ nhất của Thanh viết từ cuối tháng 8 báo cho biết ông nội Thanh Thủy đã yếu lắm, không ăn được nên rất gày, mẹ con Thanh Thủy đã về thuốc thang cho ông. Bức thứ hai báo tin ông đã mất vào chiều 26 tháng 9, mọi người ở nhà đã lo cho ông mồ yên mả đẹp. Bức thư của người anh Bùi Khoai cũng báo tin buồn ấy nhưng kể chi tiết hơn : “Những phút cuối ông cụ cứ dướn mắt nhìn ra ngoài cổng như mong chờ chú rồi thều thào hỏi thằng Khoái đâu, sao nó không về. Chú biết không, may mà tôi đã phục viên về nghỉ một thời gian trước đó nên có điều kiện trông nom ông cụ những ngày cuối, không thì ân hận chết”. Cuối thư Bùi Khoai còn tái bút : “ Lúc hấp hối ông cụ chăng chối lại rằng chú phải sinh lấy một đứa con trai. Nay tôi có tuổi, lại bị thương, việc ấy không thể nữa rồi”. Bùi Khoái ngửa mặt khóc rống lên, khóc gào lên. Đơn độc khóc một lúc cũng  phần nào nhẹ lòng, khi thôi khóc bỗng thấy trống rỗng, người như cái lon bia đã cạn. Bùi Khoái lấy tay quệt nước mắt đứng dậy tìm bó hương. Còn sót lại đúng 1 nén, anh  đốt lên đem cắm vào cái bát hương bằng lọ mứt làm từ hôm mới dọn đến, những tưởng khói hương có thể bay tận về nhà. Sau đó ra đứng cửa nhìn trời giữa giá rét, nhìn tuyết đầu mùa lất phất rơi bám vào mép cửa sổ, trong đầu nghĩ về cái nghĩa địa làng, những con đom đóm to kếch xù như ma trơi chấp chới bay ra từ những nấm mộ lô xô thấp cao xoay về mọi hướng, những bụi dứa dại um tùm, mấy con trâu đuổi nhau dẫm đổ cả những tấm bia mộ. Bây giờ bố anh nằm đấy, ngâm mình trong nước ruộng, lạnh lẽo. Bùi Khoái  tru lên một tiếng dài, chẳng khác gì một con thú hoang tru lên đau đớn giữa đêm đen.
          Mấy hôm sau, để khỏi bị lùng sục, vả lại cũng chẳng còn tiền  thuê tiếp nhà đang ở, Bùi Khoái buồn rầu lặng lẽ trốn ra một căn nhà hạ lưu bẩn thỉu gần ngay làng  Di-gan, thuê chung phòng với một ông cụ già 75 tuổi cô đơn, giá rất rẻ, gần như ở nhờ. Ông cụ gầy hom hem, nước da xanh rớt như ngọn rau để lâu ngày trong bóng tối, râu tóc lưa thưa xác xơ, đồng ý cho Bùi khoái ở chung chỉ cốt để có người nghe ông nói chuyện và ho xù xụ cả đêm. Có những lúc Bùi Khoái chăm chú nhìn trộm ông cụ, cố tìm xem có nét nào giống với bố mình. Có lẽ chỉ có tiếng khò khè sau mỗi cơn ho dứt. Tiếng khò khè trong đêm của ông cụ làm Bùi Khoái nhức nhối nghĩ đến những ngày cuối đời của bố mình.
 Lúc này Bùi Khoái phải lo ăn từng ngày. Trong tay chỉ còn khoảng 50 chiếc đồng hồ của một cô bạn đã kín đáo dúi cho theo kiểu “nuôi du kích”, anh ta dự định đem giao nốt cho mấy người quen kiếm ít tiền nóng. Đợi lúc muộn hẳn Bùi Khoái  mới dám co ro chui ra khỏi ổ. Mùa đông vừa chạm đến mà tuyết đã rơi dày đặc, trắng xóa. Bùi Khoái phải đi bộ hơn 1 cây số mới tới được bến xe buýt. Vừa lội tuyết được chừng 1 cây, vượt qua cửa rừng thông dày đặc thì anh đụng ngay phải mấy thằng cao lớn lực lưỡng, vừa đi vừa ngất ngưởng hát. Thấy chúng đi ghệt đen, mặc quần bò, áo blu-dông da cũng màu đen, cả quần cả áo đều đính chi chít khuy nhôm sáng loáng, Bùi Khoái biết ngay chúng đích thực là bọn phủi. Không ngờ trời rét và dày tuyết đến thế mà chúng còn kéo nhau ra đường. Anh quay đầu định bỏ chạy thì bị chúng chặn lại. Chúng hò hét quây lấy Bùi Khoái, như đám thợ săn quây một con thú. Bùi Khoái lúc này quá bé nhỏ so với 5 thằng đầu trọc, bối rối hoảng sợ khi nghĩ bọn này có thể giết chết mình rồi vùi xác dưới tuyết suốt cả mùa đông, khi tuyết tan người ta sẽ phát hiện thấy xác anh nằm còng queo dưới gốc cây, khô cứng và quắt lại như con cá mắm. Chưa biết chống đỡ bằng cách nào, một tay giữ chặt chiếc túi đựng 50 cái đồng hồ điện tử, một tay hua lên trước mặt, anh ta líu lưỡi thốt lên lời kêu van :
- Đừng, xin đừng đánh, tôi là bạn. Tôi là người Việt Nam !
Đầu óc bọn này chắc chắn không thể hiểu Việt Nam nghĩa là gì, cũng không một chút xúc động trước tiếng kêu tuy nhỏ bé bất lực nhưng là tiếng kêu của một con người. Một thằng sấn sổ giật chiếc mũ chùm đầu Bùi Khoái quăng ra xa, hét lên man rợ :
- Đừng quên đây là nhà của chúng tao. Đánh đi ! Đánh cho chúng mày cút khỏi đất nước này !
 Tiếng hét vừa dứt, Bùi Khoái nhận ngay một quả đấm như búa tạ đập vào mặt. Mặt anh ta bị vật ngửa ra sau, mắt tóe lên một chùm tia lửa, cái túi đựng 50 chiếc đồng hồ tuột khỏi tay vãi ra tung tóe. Cú đánh đã giáng vào lòng tự tôn của Bùi Khoái, làm đổ sập giới hạn của sự sợ hãi, thổi bùng lên một ý chí quật cường. Kể từ ngày bước chân ra khỏi hình chữ S, chưa bao giờ Bùi Khoái thấy mình Việt Nam hơn giờ phút này. Anh quay người nhìn thẳng vào kẻ thù trước mặt, mắt rực lên những tia lửa căm hờn. Nhanh nhẹn và mạnh mẽ, anh cởi phăng chiếc áo dạ trên người vất sang bên rồi như một con báo lao thẳng tới, húc đầu vào ngực một thằng phủi. Nghe một tiếng huỵch, thằng phủi cao to lao đao ngã dúi. Mấy thằng khác say máu gào lên, dùng ghệt liên tục đạp, đá vào thân thể Bùi Khoái trong khi anh ta ôm đầu cắn môi bất khuất chịu đòn. Bỗng một thằng phủi lùi lại, không biết lấy từ đâu ra một chiếc gậy sắt. Trong khi những thằng khác vẫn tiếp tục đấm, đạp, thằng này bước từng bước đến gần Bùi Khoái, bình tĩnh ước lượng khoảng cách, từ từ giơ chiếc gậy sắt như người ta giơ chiếc gậy gôn ngắm vào quả bóng là cái đầu người, bất thình lình vụt mạnh. Ngay lập tức Bùi Khoái đổ gục, nằm sõng soài trên tuyết. Bọn phủi hò hét chửi bậy rồi bỏ đi, một thằng còn cố giơ chân hất mạnh vào đầu Bùi Khoái khiến mặt anh phơi ngửa lên, loang ra một vạt rộng máu thẫm đỏ trên tuyết trắng.
Những người Di-gan tan tầm đã bắt gặp Bùi Khoái nằm lạnh toát và cứng đơ trên tuyết. Họ khiêng anh về nhà, đặt anh trong phòng có lò sưởi, lấy khăn ướt lau sạch máu khô trên mặt, máu khô gặp nước lại thôi ra nhuộm đỏ chiếc khăn lau trắng. Một cô gái mặc váy xanh đỏ sặc sỡ như đuôi công, cổ quấn chiếc khăn voan mỏng, dùng kéo khéo léo cắt bớt đám tóc ở vết thương trên đầu Bùi Khoái, rửa sạch vết thương rồi dùng cả cuộn băng cứu thương băng lại cẩn thận. Họ để yên cho anh ta nằm thiếp đi, yên tâm vì thấy nhịp thở đều và người không sốt. Mờ sáng hôm sau Bùi Khoái lơ mơ tỉnh, cựa mình muốn ngồi dậy nhưng không nổi. Đầu vẫn nhức như búa bổ, mắt nhìn chung quanh chao đảo quay cuồng. Trong lơ mơ nửa sáng nửa tối, anh nghe tiếng người hát : “Ba bị 9 quai, 12 con mắt về bắt trẻ con”. Tiếng chân lũ trẻ chạy huỳnh huỵch, tiếng la hét ồn ào trốn đi, trốn đi, Bùi Khoái thấy mình đang bị đuổi, một mình anh ra sức chạy dài trên tuyết, dấu chân thành một đường chảy dài đen ngòm chạy theo sau. Anh cố mở mắt lần nữa để xem mình đang ở đâu nhưng không thành. Giống như kẻ bị đuối nước, Bùi Khoái vùng vẫy nhoi lên khỏi cái vũng xoáy sâu hút và tối tăm nhưng bất thành. Phải một ngày sau anh mới tỉnh lại. Những người Di-gan xúm quanh anh. Bùi Khoái gượng hỏi :
- Tôi đang ở đâu thế này ?
Một người đàn ông có mái tóc đen xoăn tít trả lời :
- Chúng tôi gặp anh nằm bất tỉnh trên tuyết, máu chảy rất nhiều nên đem về đây. Đây là khu Di-gan. Anh đang ở nhà cô Xten-la. Cô Xten-la đã lau rửa và băng bó vết thương cho anh. Anh là người nước nào ?
Bùi Khoái thều thào :
- Cám ơn đã cứu tôi. Tôi là người Việt Nam.
Người đàn ông Di-gan nói tiếp :
- Thật tội nghiệp. Chúng tôi đoán anh bị bọn đầu trọc hành hung. Chúng có khoảng dăm bảy đứa rất dữ tợn, thường đi qua khu này lùng sục người nước ngoài.    Tuy Xten-la ăn mặc có phần diêm dúa với bộ đồ màu sắc sặc sỡ xòe ra như một chùm hoa nhưng cô là một cô gái Di-gan xinh đẹp, da mặt trắng hồng, mắt đen tóc quăn, đặc biệt bộ răng trắng đều tắp và sáng bóng. Mỗi khi cô cười, đôi khuyên tròn to lủng lẳng trên tai cô lại rung nhẹ và sáng lên óng ánh. Cô chăm sóc Bùi Khoái chu đáo liên tục trong hai ngày, đến khi anh đứng dậy đi lại được. Bùi Khoái nhìn cô với ánh mắt chan chứa tình cảm biết ơn, nói :
- Xten-la à, bây giờ tôi có thể tự mình đi về được rồi. Tôi biết ơn Xten-la lắm nhưng hiện tôi rất nghèo, không lấy gì đền đáp Xten-la và mọi người ở đây được.
- Anh đừng nói thế, chúng ta đều có cùng số phận của những người nhập cư, giúp đỡ anh trong lúc này là cần thiết, chúng tôi cũng vui. Đợi đến trưa mượn được xe tôi sẽ đưa anh về.
Bùi Khoái xua tay :
- Không cần đâu, tôi có thể đi được, cũng gần đây thôi.
Người đàn ông tóc xoăn cẩn thận căn dặn :
- Bị thương ở đầu, anh nên đến bệnh viện để kiểm tra, sợ có hậu quả gì không. Đi ra đường anh nhớ  cẩn thận, ở chỗ vắng thì phải tránh bọn đầu trọc, trong phố thì tránh những đám biểu tình. Mấy hôm nay đông lắm, người biểu tình đi kín đường.
Bùi Khoái cảm động ứa nước mắt, chắp tay chào mọi người, ôm hôn Xten-la rồi đi ra, đầu không khỏi lâng châng. Thỉnh thoảng anh vẫn ngang qua khu Di-gan này, nơi có những ngôi nhà nhỏ hôi hám, mái tôn lợp tạm bợ, những dãy hàng rào thấp bé dây leo quấn chằng chịt nhưng chưa bao giờ  để ý tới những người đàn ông Di-gan làm thợ xây dựng thường đi thành từng tốp tới công trường. Những người phụ nữ đeo khuyên tai tròn to và mặc váy màu sặc sỡ thường mang rau và táo trong vườn ra ven đường đứng bán, có khi họ bán cả thịt gà, thịt lợn chăn nuôi được, dân Việt muốn ăn đồ tươi thường đến đây tìm mua. Bùi Khoái đã có lần dừng lại mua một giỏ táo tươi nguyên với giá rẻ như cho. Tuy nhiên họ là ai, họ yêu ghét cái gì thì cho tới hôm nay, khi được họ cưu mang giúp đỡ, Bùi Khoái mới hiểu, rằng họ cũng có một thân phận chẳng kém phần trôi dạt ở đất nước này. Khi Bùi Khoái đã đi được một quãng, cô Xten-la còn chạy theo dúi vào tay anh một cái túi nhỏ, trong có mấy cái bánh sữa.
- Anh cầm lấy, sợ về nhà còn chưa có cái gì ăn.
Bùi Khoái cầm gói bánh, đứng đần người nhìn cô. Anh tưởng như sẽ không bao giờ quên được làn mi cong trên đôi mắt đen huyền của cô gái Di-gan xa lạ.
          Tự Bùi Khoái cũng biết cú đánh vào đầu anh là một cú chí tử, cần đi chụp chiếu để xem có ảnh hưởng gì không. Tuy nhiên việc đó bây giờ là không thể, anh không còn chế độ y tế khám chữa bệnh nữa. Bùi Khoái đánh bài bây, mặc kệ nó, sau một tuần không thấy đau đầu chóng mặt  bèn quyết định tái xuất. Anh ta lẩm bẩm, mình là người tử tế, không lừa dối, không tranh giành ai thì chắc trời phải thương, đi ra đường không gặp quý nhân giúp đỡ thì cũng nhặt được tiền. Quả nhiên lời cầu mong ấy linh ứng ngay, đi được một quãng đường anh ta bỗng  reo lên vui sướng thấy tờ 10 cu-run nằm phơi trên mặt tuyết trắng. Bùi Khoái cúi nhặt, lấy tay phủi sạch tuyết bám trên tờ bạc vụn trị giá bằng 2 cái vé tàu điện. Coi đấy như là một điềm may, anh ta đi thẳng đến tìm Zđen-nếc, chỗ bấu víu cuối cùng. Có muốn xấu hổ cũng không còn gì để xấu hổ nữa, Bùi Khoái tiến thẳng đến, nói :
          - Anh bạn thân mến ơi, tôi thật sự không còn đồng nào nữa. Anh có thể cho tôi ít tiền được không ?
          Nhìn Bùi Khoái tóc tai bơ phờ, tiều tụy, bẩn tưởi như một kẻ hành khất  ở góc sân ga, Zđen-nếc động lòng thương hại. Ông ta rút ví giơ cao lên cho Bùi Khoái nhìn.
          - Anh thấy đấy, tôi cũng chỉ còn một ít, ta chia đôi nhé.
          Bùi Khoái reo lên :
          - Trời đất ơi, người Việt chúng tôi nói “một miếng khi đói bằng một gói khi no” đấy ông bạn vàng ạ.
Thấy nụ cười rạng rỡ trên mặt Zđen-nếc, Bùi Khoái hỏi :
- Hình như anh đang có điều gì vui lắm ?
          - Đúng thế, rất vui. Đất nước tôi vừa có những thay đổi to lớn như thế mà anh không biết gì thật sao ?
          Lúc này Bùi Khoái mới thật sự thấy mình đang xấu hổ. Anh nhăn nhó nói :       
-Những ngày vừa rồi tôi sống khó khăn quá, không biết đã xảy ra chuyện gì.
          Quả thật anh ta chẳng còn tâm trí nào để thấy những biến đổi chung quanh mặc dù chung quanh anh đang rầm rập chuyển động. Như mọi cái đang được sắp đặt lại. Có cái gì khác lạ, khác hẳn với những điều anh đã biết, đã được học tập ở trong nước. Nhưng bây giờ Bùi Khoái quan tâm nhất là tiền, làm thế nào có tiền. Đang mải suy ngẫm  thì giọng Zđen-nếc chợt cất lên sang sảng bên tai :
          - Nhà nước cộng sản của chúng tôi đã tuyên bố từ bỏ quyền lực. Ông Ha-ven đã tuyên bố sẽ tổng tuyển cử. Đây là một cuộc cách mạng, người ta gọi là Sa-mê-tô-vá Rê-vô-lu-xe, anh hiểu không !
          Bùi Khoái không hiểu. Với vốn từ ngữ chợ búa không đến mức quá nghèo nàn, anh ta biết chữ sa-mê-tô-va là nhung, rê-vô-lu-xe thì tiếng nước nào chẳng có nghĩa là cách mạng. Nhưng cách mạng nhung là cái gì thì anh ta không hiểu. Bùi Khoái trợn tròn mắt, há hốc mồm tới mức không khép lại được.
          - Thật à, sao tôi chẳng biết gì.
          Zđen-nếc không buồn nói thêm, lặng lẽ đếm 200 ku-run đưa Bùi Khoái, trong đầu nghĩ anh chàng này thật sự tội nghiệp.
          Thật sự không biết những gì đã xảy ra trong mấy ngày vừa qua, Bùi Khoái cho rằng chỉ có Lạng có thể nói cho anh rõ vì Lạng là cán bộ, lại còn là nhà buôn sành sỏi, kể cả buôn lậu, vì thế anh ta có thể rất nhạy bén với tình hình. Từ nhà Zđen-nếc Bùi Khoái đi thẳng đến chỗ Lạng để hỏi cho biết, lòng dạ nóng ran.
          - Tôi nghe mấy người bạn Tiệp nói vừa có cách mạng là thế nào ?
          - Anh không biết thật sao ? Mà đúng thôi, các anh mải làm ăn, biết đếch gì.
          - Họ còn nói chế độ cộng sản đã phải nhượng bộ, đầu hàng nhân dân. Thế nghĩa là sao ? Làm sao có thể có chuyện đó ?
          - Thật thế đấy. Chuyện đó đã xảy ra. Không phải chỉ có ở Tiệp. Trước đó ở Ba Lan, ở Đức cũng đã xảy ra. Ở Đức thì bức tường Béc-lanh bị đập vỡ rồi. Khối các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ cả rồi.
          Bùi Khoái trố mắt kinh ngạc, cái tròng đen con mắt anh ta lồi hẳn ra như hai hạt nhãn.
          - Kinh khủng quá, không thể tưởng tượng được. Làm sao có thể như thế được chứ !
          Anh chàng cán bộ kiêm nhà buôn phủi tay một cái, ra vẻ thương hại người đang hỏi chuyện mình.
          - Thôi, xin ông đừng tưởng tượng gì cả, hãy lo cho cái thân mình trước đã.
          - Biết lo thế nào ! Trong lúc lộn xộn tôi toàn bị bọn đầu trọc đuổi đánh. Tình hình như thế rồi người Việt mình sẽ ra sao ?
          - Cũng tán loạn cả. Nhiều người ở Liên Xô thì bỏ sang Đức, ở Tiệp chạy sang Ba Lan…Người ta tranh thủ lúc tranh tối tranh sáng đi lại có vẻ dễ dàng hơn. Như hoàn cảnh của anh bây giờ mà  bỏ chạy sang Ba Lan có khi lại sống được.
          - Đi có phải dễ đâu. Giấy tờ chẳng có, tiền thì không.
          Bất thình lình Lạng hỏi :
          - Anh có muốn đi không ?
          - Muốn thì làm thế nào ?
          - Tôi có người quen ở Vác-xa-va, có thể giúp anh.
          Vốn từ trước đã nghe ở Ba Lan làm ăn dễ nên Bùi Khoái bừng tỉnh khi vớ được câu nói đó. Đi, chỉ cần thoát khỏi cảnh khốn khó cùng quẫn hiện tại. Anh ta vội vàng nói :
          - Tôi đi. Anh giúp tôi chứ ?
          - Được rồi, chỉ cần anh làm theo những chỉ dẫn của tôi.
          Những điều Lạng dặn Bùi Khoái cốt lõi thực ra cũng là chuyện làm ăn. Tuy nhiên, Bùi Khoái vẫn thấy vui ngây ngất trong lòng. Đã lâu anh ta mới thấy được thơ thới như thế. Trên đường về cái ổ chuột, Bùi Khoái vừa cảnh giác đi sát vào mép vỉa hè dưới những mái hiên che nắng, vừa để ý quan sát nhưng ngạc nhiên không tìm ra vẻ gì là cách mạng, cách mạng theo những điều anh còn nhớ từ những bài học phổ thông như cách mạng Pháp, cách mạng tháng Mười, cách mạng tháng Tám. Không thấy súng nổ, không có giết chóc. Những chiếc xe buýt vẫn vội vã lao nhanh dưới trời mưa tuyết như thường ngày. Một đoàn thanh niên cầm cờ và hoa hồng  vừa đi vừa hát. Họ mặc áo ấm màu xám tạo thành một khối tối màu di chuyển trên tuyết trắng làm nền cho những điểm sáng cờ và hoa. Bùi Khoái nhớ đến những cành hoa màu đỏ trong phòng nhà Zđen-nếc. Anh chợt nghĩ phải chăng đã diễn ra một sự biến đổi sâu sắc trong những con người này mà sự phấn khích đang tràn ngập trên nét mặt và trong những lời hò hét ca hát của họ. Về tới nơi, thấy ông lão chủ nhà đứng chống nạnh ở cổng, vài sợi tóc bạc trên đầu phơi ra tuyết, gió thổi chổng ngược lên. Thấy Bùi Khoái, ông ta chặn lại. Bùi Khoái hỏi :
          - Ông đang đợi ai ?
          - Làm gì có ai mà đợi !
          - Vậy đứng giữa trời rét làm gì ?
          - Anh không biết à, đảng cộng sản của chúng tôi thua rồi.
          - Vậy à, vì vậy mà ông lo lắng đứng đây à ?
          Ông già tru tréo :
          - Lương hưu của tôi, ai sẽ trả khoản lương hưu gày còm cho tôi ?
          Vừa lúc ấy chiếc điện thoại cũ rích trong nhà reo lên, ông già vội vã lập cập chạy vào. Nhấc máy để lên tai, ông ta quay ra gọi :
          - Bùi Khoái, của anh.
          Người duy nhất anh cho số điện thoại ở đây là Bích Ngọc, Bùi Khoái vội chạy vào. Tiếng Bích Ngọc rè rè trong máy :
          - Khoảng 11 giờ đêm anh ra ga trung tâm đón em nhé, em không biết đường đến nơi ở mới của anh.
          Bùi Khoái lạ lùng hỏi :
          - Sao đang yên lành mà nửa đêm lại lên Pra-ha ?
          - Yên gì mà yên, chỗ em đang loạn cả lên.
          - Có chuyện gì ?
          - Đoàn thực tập sinh của em giờ không có ai quản, ai muốn đi đâu thì đi. Đã có mấy người bỏ đi rồi, nghe đâu tìm đường sang Đức. Em sợ quá, phải lên với anh.
          - Thôi được, cứ lên đây rồi tính. 
          Cuối xuân năm 1990, theo sự hướng dẫn của Lạng, Bùi Khoái và Bích Ngọc cùng 6 người khác tìm đường ra đi. Cả bọn được xe của một người Việt Nam chở đến tỉnh biên giới Ốt-xtra-va, từ đây họ đi bộ qua rừng, phía bên kia là Ba Lan đã có người đón. Một chuyến đi như vậy vỏn vẹn mỗi người chỉ phải trả 300 đô, tuy nhiên đối với Bùi Khoái lúc bấy giờ 300 đô là một món rất to, trong túi gần như không còn đồng nào, tất cả đều phải trông vào Bích Ngọc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét