Phạm Quang Đẩu
(Báo Tinh hoa Việt số 125, 10/6/2020)
(Báo Tinh hoa Việt số 125, 10/6/2020)
Trong số các hội viên Hội Nhà
văn Việt Nam hiện nay đều có xuất thân từ
nhiều ngành nghề, song là nhà ngoại giao chuyên nghiệp thì chỉ đếm được
trên đầu ngón tay. Một bạn viết của tôi, nhà văn Thăng Sắc, ông từng là đại sứ
ở nhiều nước châu Âu, châu Phi và châu Á trước khi trở thành nhà văn. Hiện ở
tuổi “xưa nay hiếm”, sức sáng tạo của ông vẫn dồi dào, là tác giả của nhiều
cuốn tiểu thuyết mới gây được tiếng vang về cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài.
Hồi đầu
năm 2004, lần đầu tôi biết đến cái tên Thăng Sắc qua đọc truyện ngắn Gò Sim trong tạp chí Nhà văn. Vì nội dung truyện bạo liệt,
hấp dẫn, cách dẫn dắt khá hiện đại khác hẳn những truyện ngắn “đèm đẹp”, “hiền
lành” vẫn thường thấy, nên đọc xong còn nhớ tên tác giả. Đầu năm sau, tạp chí Nhà văn qua dư luận bạn đọc, đã đăng lại
một số truyện hay của cả năm trước, Gò
Sim được chọn. Thế rồi đến năm 2010, Hội Nhà văn Việt Nam công bố các tác
phẩm trúng giải Văn học sông Mê Kông lần thứ ba, trong đó có 2 cuốn tiểu thuyết
của tôi và Thăng Sắc. Thăng Sắc với Chú
Tư con là ai, viết về cộng đồng người Việt sống lênh đênh trên biển hồ Tông
Lê Sáp, Campuchia; còn tôi với Một ngày
là mười năm viết về quân tình nguyện Việt Nam ở Lào thời kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ. Hôm Hội Nhà văn mời các tác giả được giải đến, tôi mới biết
mặt Thăng Sắc. Không khỏi bất ngờ, bởi tôi cứ nghĩ “văn là người”, hình dung
tác giả Gò Sim phải ít ra có cái diện
mạo dữ dằn chẳng hạn như dáng cao lớn, nét mặt góc cạnh. Nhưng khi nhà thơ Hữu
Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam giới thiệu thì Thăng Sắc, là một người nhỏ
nhắn, thư sinh, nụ cười hiền lành, tên thật là Nguyễn Chiến Thắng. Ông nhiều
năm sống ở nước ngoài, nhiệm kỳ đại sứ cuối cùng là tại Campuchia, trước đó
từng là đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Pháp, kiêm nhiệm Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha; Đại sứ tại Algeria, kiêm nhiệm Mali, Sarauy Dân chủ... Giải Văn học sông
Mê Kông thường dành cho hội viên của Hội Nhà văn 3 nước Đông Dương, năm ấy nhận
giải Thăng Sắc chưa hội viên, phải 3 năm sau ông mới được kết nạp vào Hội. Thế
rồi vào đầu tháng 3-2010, nhà thơ Hữu Thỉnh dẫn đầu đoàn nhà văn Việt Nam sang
Viêng Chăn giao lưu cùng nhà văn Lào, Campuchia. Tôi và Thăng Sắc được nhận
giải từ tay ông Phó Thủ tướng Thường trực nước bạn, ông nói tiếng Việt sõi như
người Việt: Chúc mừng đồng chí có tác phẩm hay! Những ngày nhận giải và đi thăm
thú nước bạn cùng Thăng Sắc, tôi đã được nghe ông kể nhiều về kỷ niệm trong đời
làm ngoại giao và lý do thôi thúc ông cầm bút viết văn “tay trái” mà vẫn có được
thành tựu như vậy.
Ông kể
là, trong nghề ngoại giao, chỉ riêng việc trình quốc thư thôi cũng khối chuyện
thú vị. Năm 1993 ông sang Algeria làm đại sứ, lễ tân quy định đại sứ mới đến
khi chưa trình quốc thư lên nguyên thủ quốc gia thì chưa được có tiếp xúc chính
thức. Sau khi gặp Tổng Vụ trưởng lễ tân để trao bản sao thư, ông đã “quên mất”
điều quy định trên mà đi gặp Tổng Vụ trưởng khu vực châu Á. Ngay hôm sau, Vụ
trưởng Vụ Lễ tân đã gọi ông lên Bộ Ngoại giao nước sở tại để nhắc nhở. Đến năm
2000, ông được cử làm đại diện Việt Nam tại cuộc họp Bộ trưởng các nước nói
tiếng Pháp tổ chức ở Cộng hòa Chad (châu Phi), gặp lại vị Vụ trưởng Lễ tân kia,
trong lúc cụng ly ông bảo nhỏ: Sao ngày đó ông hắc thế? Vị kia liền cười thoải
mái bảo là cái nghề lễ tân phải chi tiết tỉ mỉ đúng nguyên tắc như vậy đấy.
Sang Cộng hòa Pháp nhận đại sứ, ông trình quốc thư lên Tổng thống Jacques Chirac,
đã nhiều lần làm việc này mà vẫn không khỏi hồi hộp. Tổng thống Jacques Chirac
dáng cao to, hồ hởi, chủ động làm bớt khoảng cách giữa nguyên thủ với đại sứ,
gọi ông bằng từ “camarade”. Trong tiếng Pháp, từ này không chỉ có nghĩa là
“đồng chí”, mà còn là cách gọi thân mật của những người cùng học một trường.
Tổng thống đã chu đáo hỏi trước tiểu sử của tân đại sứ, biết Nguyễn Chiến Thắng
từng học ở Trường Hành chính quốc gia Pháp (ENA), hàm ý rằng ông và đại sứ đều
từ đấy mà ra cả. Riêng việc trình quốc thư lên vua Tây Ban Nha phải mặc lễ phục
đuôi tôm. Hôm hành lễ, đại sứ đi xe 6 ngựa kéo, dân chúng đứng hai bên đường
thấy lạ mắt giơ tay vẫy chào. Ông bảo, mình dân châu Á dáng nhỏ bé mặc lễ phục
đuôi tôm vào yết kiến vua nom hài hước chẳng khác gì bá tước Caraba trong phim Chú mèo đi hia(!). Đơn giản nhất thế
giới về lễ nghi có lẽ là ở nước Sarauy Dân chủ trên sa mạc Sahara. Nơi làm việc
của Tổng thống là một ngôi nhà thấp, tường đắp đất rất dày để chống nóng. Tổng
thống mặc quân phục màu cỏ úa, đứng đợi sẵn ở cửa chờ đại sứ đến trình quốc thư,
vui vẻ gọi ông là “đồng chí”, nói chuyện với nhau thân mật như những người lính
cùng chiến hào, không có thêm thủ tục lễ nghi nào khác.
Với đất
nước Chùa Tháp, ông nhiều kỷ niệm bởi đã có thời gian khá dài làm việc trên đất
bạn, riêng nhiệm kỳ đại sứ là 4 năm (2005-2009). Ông nhiều lần được dự tiệc của
cựu hoàng Norodom Sihanouk và Hoàng thái hậu Monica tổ chức chiêu đãi các đại
sứ. Cựu hoàng nói bằng thứ tiếng Pháp chuẩn mực và hào hứng “dẫn chương trình”
phần văn nghệ rất náo hoạt. Ở lần thứ 3 ngài hát những bài tự sáng tác như bài Monica viết tặng Hoàng thái hậu, còn hát
bài của các nước kể cả của Việt Nam. Khi hát xong Cây trúc xinh, cựu hoàng vui vẻ hỏi lại ông: Tôi hát thế có rõ lời
không? Sau đó ngài còn nói là rất biết ơn Việt Nam đã giúp Campuchia đánh đuổi
Khơ Me Đỏ, nếu không có Việt Nam thì làm sao một người tù của Khơ Me Đỏ là
Sihanouk được đứng đây hát cho các vị nghe hôm nay.
Ngoài
công việc của một quan chức ngoại giao, từ lâu ông còn có ý thức tích lũy vốn
sống của một nhà văn. Ông thường tiếp xúc với Việt kiều ở các nước sở tại, quan
tâm đến đời sống kinh tế, văn hóa của họ nơi đất khách quên người. Khi công tác
ở Campuchia, ông dành thì giờ, nhiều lần đến thăm những xóm Việt kiều ở ngoại
ô. Cứ mỗi lần đi về, trong lòng ông lại day dứt khôn nguôi bởi thấy bà con mình
còn nghèo quá và muốn làm được một cái gì đó cụ thể cho họ. Thế là những khi
rảnh việc ông ghi chép về cuộc sống cùng tâm tư nguyện vọng của họ, hình thành
nên cuốn tiểu thuyết Chú Tư con là ai
sau này. Sức cuốn hút của tác phẩm là một bức tranh phong phú sinh động về cộng
đồng người Việt trên Biển Hồ mênh mông vẫn gắn kết chặt chẽ cùng giúp đỡ nhau
trong đời thường cũng như lúc gặp hoạn nạn. Kết cấu truyện chặt chẽ, văn phong
dung dị, hàm xúc đã nhận được số phiếu bầu cao của hội đồng xét Giải văn học
sông Mê Kông. Trước tác phẩm này, Thăng Sắc còn có hai tiểu thuyết được dựng
thành phim, đó là Nụ tầm xuân, đạo
diễn Bạch Diệp và Chớp mắt cùng số phận,
đạo diễn Ngọc Linh, cả hai đều viết về người lính tình nguyện Việt Nam. Có lần
tôi hỏi Thăng Sắc, tại sao lại tâm huyết với chủ đề người lính như vậy? Anh
nói: “Tôi đã gặp và tận mắt thấy những người lính tình nguyện Việt Nam giúp
nước bạn Campuchia đánh đuổi tàn quân Pol Pot, chiến thắng lớn nhưng thương
vong cũng nhiều. Hình ảnh những người lính bị thương được đưa từ chiến trường
về, băng trắng quấn quanh cơ thể, có người ôm nạng ngồi, có người cụt cả chân
tay đã hằn sâu vào suy nghĩ của tôi về đất nước, về dân tộc và về tình cảm quốc
tế, điều đó chính là một trong những mối liên kết chắc chắn giữa văn chương và
ngoại giao”. Cũng cần nói thêm, không chỉ tích lũy vốn sống, nhà văn tương lai
còn trang bị cho mình một nền tảng lý luận về văn chương. Đó là trong quá trình
làm công tác ngoại giao dù rất bận rộn, ông còn hoàn thành tại đại học Sorbonne
một văn bằng thạc sĩ văn chương về “Văn tự luận”.
Do có
sự chuẩn bị khá kỹ càng, sau năm 2010 nghỉ hưu, ông có nhiều thì giờ cho viết
lách hơn, thì cứ một, hai năm lại cho ra đời một cuốn tiểu thuyết dày dặn cỡ
trên 300 trang. Cuối năm 2015, NXB Hội Nhà văn ra mắt bạn đọc cuốn tiểu thuyết:
Đi trong lốc xoáy. Vẫn là bám sát đời
sống, các nhân vật bị quay cuồng trong cơn lốc xoáy của cơ chế thị trường hôm
nay. Có cả những số phận nghiệt ngã “hơi hướng” của Gò Sim, nhưng bao trùm lên vẫn là tấm lòng bao dung của con người
trong cơn hoạn nạn, cái phẩm chất hồn hậu, nhân ái trong Chú Tư con là ai. Nhưng phải đến Ngụ cư(NXB Hội Nhà văn 2017) Thăng Sắc mới bộc lộ hết sở trường của
một nhà văn trong nghề ngoại giao, từng đến tìm hiểu ở nhiều nước có đông cộng
đồng người Việt sinh sống, như:
Nga, Séc, Ba lan...Nhân vật chính của tiểu thuyết này là Bùi Khoái, một giảng
viên đại học đi xuất khẩu lao động vào những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ
trước.Tác giả tả lúc anh “tân binh” ấy đi giao hàng lậu bằng những dòng khá
sinh động, hóm hỉnh: “Bùi Khoái và Đình Dũng tiến đến ngồi xuống ghế, vẫn không
ai nói gì, nghe rõ tiếng tim mình đập thình thịch trong ngực...đến khi mở cửa
phòng rồi khép chặt cửa lại, cả hai mới thở phào và phá lên cười: Mẹ kiếp cứ
như biệt động Sài Gòn ấy.”(Trang 88). Ở môi trường kinh doanh chụp dật, anh ta
phải làm lại từ đầu, học những bài sơ đẳng, đại loại như dạy dỗ của một cô
người Hải Phòng: “Làm ăn dễ thôi, mình có hàng thì đem bán. Bán có tiền lại đi
ôm của người khác về. Cứ thế quay vòng cho vốn lớn lên”(Trang 61); hoặc: “Anh
ngốc ạ, trong khi chưa gửi được về thì mình bán lại cho người ta. Miễn là có lãi.
Để chất đống trong nhà làm gì. Bằng lòng ăn ít thôi nhưng nhanh được ăn, vốn
mau tăng. Có vốn thì lại đánh được nhiều hàng.”(Trang 73)... Đến khi Bùi Khoái
tích cóp được một món tiền kha khá định để “mở rộng sản xuất” và gửi về nước
trả nợ, thì bị bọn xã hội đen “khoắng” sạch. Choáng váng, tưởng như bị quỵ hẳn.
Bạn bè xúm lại đỡ anh ta đứng dậy, vì thấy anh vốn là người trọng tín nghĩa.
Chính vì trọng chữ “tín”, mà khi làm ăn ở Tiệp bị trắng tay phải bán
xới sang nước láng giềng Ba Lan, Bùi Khoái lại có được thành công, lần này lớn
hơn, vững chắc hơn. Cái kết của cuốn sách là có hậu, như câu ngạn ngữ “ở hiền
gặp lành”. Đấy là dụng ý xuyên suốt khi xây dựng nhân vật chính của tác giả
Thăng Sắc. Cuốn Ngụ cư đã lọt vào vòng xét chung khảo những tác phẩm
xuất sắc nhất của Hội Nhà văn Việt Nam năm ấy.
Năm 2020 này, trong lúc nhà văn Thăng Sắc cùng
vợ sang Mỹ thăm gia đình đứa con đang sống ở NewYord thì dịch Covid 19 ập đến.
Trong những tháng ngày chủ yếu sống trong nhà, không hé mặt ra đường Thăng Sắc
đã vừa kịp viết xong một cuốn tiểu thuyết mới: Láng giềng. Ông vẫn giữ
thói quen gửi tôi đọc tác phẩm từ khi còn là bản thảo. Lại thêm một cuốn nữa
của nhà văn có yếu tố “nước ngoài”, đó là đi vào mổ xẻ, phản ánh thân phận
những con người yếu thế của một “xã hội vùng biên”. Họ thường xuyên có mối liên
hệ làm ăn buôn bán “tiểu ngạch”, luôn chấp chới trong lằn ranh vi phạm pháp
luật. Cuộc mưu sinh kiểu ấy thường thì bao giờ cũng gặp phải những kết cục cay
đắng. Đằng sau con chữ, số phận nhân vật là lời cảnh báo đầy ý nghĩa với cộng
đồng về những kẻ láng giềng xấu chơi bên kia biên giới phía Bắc. Với tiểu
thuyết mới nhất này, ta lại thấy cái “vốn” ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt trong
nhà văn vẫn đang được khai thác khá là triệt để dưới góc nhìn nhân bản. Hãy đợi
tác phẩm chính thức ra mắt, để bạn đọc có những đánh giá cụ thể, riêng tôi đọc
bản thảo lần đầu thì thấy ở đây lại có những thành công về cấu trúc, xây dựng
nhân vật của cuốn tiểu thuyết. Trước hết xin được chúc mừng anh!
-----------------------------------
Ảnh theo bài: Nhà
văn Thăng Sắc(bên phải) và tác giả trong lần sang thủ đô Viêng Chăn(Lào) nhận
giải thưởng Văn học sông Mê Kông(Tháng 3-2010)