Thứ Bảy, 30 tháng 10, 2021

KHÔNG CÓ NỖI BUỒN THỨ BA

         Nhà báo người Pháp Giăng Clốt Láp-bê đã hoạt động báo chí ở Việt Nam gần suốt cuộc đời, là một trong số hiếm hoi các nhà báo đã chứng kiến giây phút quân giải phóng tiến vào dinh Độc lập ngày 30-4-75 và sau đó đã đi khắp nước Việt Nam để chụp ảnh, viết bài. Ảnh, bài viết, các phóng sự truyền hình của anh về Việt Nam đã rất quen đối với độc giả của nhiều tờ báo và hãng truyền hình lớn ở Anh, Pháp, Mỹ, Ô-xtrây-li-a. Anh đã nhận được nhiều giải thưởng lớn về báo chí như CAPPA, Lê-ô-na đờ Vanh-xi...Anh đã làm báo về Việt Nam với một tình yêu cuồng nhiệt.

          Trở lại Việt Nam, Láp-bê đem theo cho các bạn mình ở đây hai nỗi buồn, cả hai đều như một thứ rượu Boóc-đô già mà chỉ thời gian mới có thể làm cho sánh lên chất men chiêm nghiệm như thế được. Đụng vào hai nỗi buồn của anh chúng tôi thấy mình cũng chếnh choáng. Mộng mị gì nữa mà không chiêm nghiệm khi ai cũng đều trán đã hói bóng và tóc đã lơ thơ bạc trắng.

          Nỗi buồn thứ nhất là trở lại Hà Nội lần này Láp-bê thấy bạn bè cũ vắng đi đã nhiều. Không còn tông-tông Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Cơ Thạch để anh sà đến chuyện trò thăm hỏi. (Tiếng Pháp tonton có nghĩa là chú, chú Linh, chú Đồng, chú Thạch). Cái anh chàng nhà báo có tật đập tay đùng đùng và thỉnh thoảng lại hét lên trong khi nói chuyện thật ra lại rất có duyên, được các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta quý mến. Cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã ưu ái dành cho anh vinh dự là nhà báo đầu tiên được phỏng vấn mình khi ông vừa nhậm chức vào năm 1986.

          Các bạn nhà báo nước ngoài đã cùng anh lăn lộn ở Việt Nam trong thời chiến tranh biên giới năm 1979 cũng tao tác hết cả. Ta-ka-nô nằm lại Lạng Sơn như biểu tượng vĩnh cửu của một tình hữu nghị quả cảm. N.Đa-vít bị bắn chết trong một cuộc săn tin đảo chính ở Băng-cốc. Bớc-sét đã về hai năm mươi. Nhiều nhà báo Việt Nam đã cùng anh đi khắp đất nước như anh Nguyễn Quí Quí, anh Nguyễn Văn Lượng đã về cõi cả rồi, đấy là chưa kể đến các anh Bùi Hữu Nhân, Nguyễn Hải Sơn cũng đã ra đi bởi tai nạn giao thông thật là phi lý. Láp-bê đập tay vào trán thốt lên : buồn quá !

          Nỗi buồn thứ hai là Láp-bê đã phải rời bỏ chiếc máy ảnh Ni-công của mình.  Tác giả của những tập sách ảnh phóng sự lớn về mọi mặt đời sống của Việt Nam như “Việt Nam, chiến tranh, đất nước và con người” hay “ Việt Nam sâu kín, cảm giác và cảm xúc”..bị ốm và phải mổ tim năm 2001. Người mổ tim cho anh là bạn anh, bác sĩ giáo sư A-lanh đờ Lô-sơ, cũng là người bạn của Việt Nam, một trong những người sáng lập Viện tim thành phố Hồ Chí Minh. Vì thế lần này đến Việt Nam Láp-bê không mang theo máy ảnh. Con người đã từng là nhân chứng trung thực và chân thành của một thời kỳ lịch sử máu lửa và bất khuất của Việt Nam, đã từng rong ruổi khắp Việt Nam để chụp ảnh, chụp một cách cần mẫn, say sưa, nhậy bén và thông minh đã tặng lại chiếc Ni-công gắn bó với mình cho con gái. Tội nghiệp chưa, có khác nào người nghiện mà không mang thuốc. Anh kêu lên : buồn quá các bạn ơi.

          Không có nỗi buồn thứ ba. Câu chuyện giữa những người bạn cũ, lại là những người đã ở tuổi tri thiên mệnh thường xoay quanh người cũ, việc cũ, xoay quanh những chuyện của một cuộc đời. Nhà văn Pháp A. Man-rô chiêm nghiệm rằng một cuộc đời đáng giá chẳng bao nhiêu nhưng chẳng có gì đáng giá bằng một cuộc đời. Láp-bê đã sống đam mê và thủy chung, đam mê trung thực và thủy chung cũng trung thực, bởi vậy cả hai nỗi buồn của anh cũng rất thật. Cả cuộc đời anh đã yêu Việt Nam. Việc làm báo của anh cũng từ tình yêu ấy mà thành sự nghiệp. Yêu thật sự, không phải vì danh, một thời danh của anh đã qua đi rồi. Không phải vì tiền, Láp-bê không có tiền để đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam. Ở đây anh chỉ có những người bạn. Phải chăng đấy mới là hạnh phúc đích thực. Một Láp-bê với chiếc khăn rằn vắt vai, miệng tóp tép mẩu cam thảo thay thuốc lá và chiếc máy ảnh Ni-công đeo trước ngực đã là hình ảnh một người bạn thân thiết không chỉ của nhiều nhà báo Việt Nam mà còn của cả Việt Nam một thời.

         

 

Thứ Sáu, 29 tháng 10, 2021

Chuyện ngoại giao thú vị 7 : Chuyện thật như đùa !!!

 

Báo Tuổi trẻ 12/10/21 dẫn New York Times cho biết ba chiếc áo choàng được cho làm từ lông hổ trắng và báo đốm mà Saudi Arabia tặng cho đoàn tổng thống Donald Trump năm 2017 đã... qua tay thợ nhuộm để trông giống như thật.

Ông Tyler Cherry, phát ngôn viên của Bộ Nội vụ, xác nhận thông tin trên New York Times. "Các thanh tra động vật hoang dã và đặc vụ của chúng tôi xác định áo choàng đã được nhuộm cho giống mẫu hổ trắng, báo đốm và không nằm trong những loài động vật được bảo vệ", ông Cherry nói.

Đại sứ quán Saudi Arabia tại Mỹ và Bộ Ngoại giao nước này từ chối bình luận.

Bộ Ngoại giao Mỹ đã công bố danh sách 82 món quà Saudi Arabia tặng trong chuyến công du tháng 5-2017 theo Đạo luật tự do thông tin. Những món quà rất đa dạng, từ những món bình thường như dép và khăn quàng cổ đến những món đắt tiền như lông thú và dao găm, tuy nhiên đồ lông thú bị cáo buộc là đã qua tay thợ nhuộm.

Trong khi đó Tổng thanh tra Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn đang truy tìm tung tích của một chai rượu whisky Nhật trị giá 5.800 USD được trao cho ngoại trưởng Mike Pompeo, thứ mà ông khẳng định chưa bao giờ nhìn thấy nó. (Chuyện ngoại giao thú vị 1 : chai whisky bí ẩn, Lều văn Thăng Sắc 6/8/21)

Nhời bàn : Đồ giả lông thú cũng được đem tặng Tổng thống Mỹ..., chuyện thật như đùa. Ha ha, thú vị thật !!!

 

Thứ Hai, 11 tháng 10, 2021

NHÀ BÁO MA-ĐƠ-LEN RI-PHÔ VÀ MỐI TÌNH TỪ MỘT BÀI THƠ

          Năm 1997, khi còn công tác ở Pháp, tôi đã đến thăm một người bạn nổi tiếng của Việt Nam. Hôm ấy Paris rét dưới âm 5 độ nhưng tôi thấy lòng mình thật ấm áp, còn hơn thế nữa, hơi bối rối, xúc động khi nghĩ rằng mình sắp gặp một người chị, một nhà văn, nhà báo đã từng được họa sĩ Pi-cát-xô vẽ chân dung, đã từng có những tác phẩm thuộc loại bét-xeo-lơ. Ấy vậy mà một phần đời chính của chị lại dành cho Việt Nam, phần đời tranh đấu, phần đời người chiến sĩ. Và cả phần đời yêu đương nữa. Chị chính là Ma-đơ-len Ri-phô.

Chân dung Ma-đơ-len Ri-phô năm 20 tuổi do họa sĩ Pi-cát-xô vẽ tặng.      

           Chị ở tầng 5 chung cư số 13 phố Vin-hác-đu-anh. Cầu thang gỗ không trải thảm, thời gian đã bào mòn từng bậc thang trơn bóng. Tôi se lòng khi nghĩ rằng ở tuổi hơn bảy chục chị vẫn thường phải lên xuống 4 tầng cầu thang trơn và vòng tròn này.

          Chị ôm hôn tôi thật thắm thiết. Tôi hỏi : “Chị có biết tại sao em lại tặng chị 8 bông hồng không ?”. Chị hóm hỉnh : “Vì chị là chị Tám chứ còn gì nữa”. Hai chị em tôi phá lên cười.

          Hai gian phòng gọn gàng xinh xắn, đồ đạc không cầu kỳ chứng tỏ chủ nhân là người giản dị nhưng có gu. Một lồng chim to bên cạnh một chậu vạn niên thanh xanh tốt bò quấn quít lên tận giá sách. Con chim chị nuôi là con họa mi, nhảy nhót tung tẩy và bỗng cất tiếng hót say mê như chào đón khách. Trên tường chị treo hai bức tranh lớn. Một là bức chân dung do họa sĩ Po-cát-xô vẽ tặng chị năm 1945, khi chị mới 20 tuổi. Bên cạnh là tấm áp phích Việt Nam với hàng chữ “Không có gì quý hơn độc lập tự do” nổi bật trên nền hồng của hoa sen. Bên dưới tấm áp-phích có ghi “Tranh của Lê Thanh Đức, in tại nhà máy in Tiến Bộ, giá 0đ50”. Tôi tự hỏi phải chăng số phận đã định sẵn một mối liên hệ gắn bó nào đó giữa người con gái 20 tuổi trong tranh của Pi-cát-xô, thực ra là người nữ du kích Pháp từ năm 17 tuổi, với sự nghiệp độc lập tự do của dân tộc Việt Nam mà người đại diện là Bác Hồ.

          Nói chuyện với chị thật khó vì chị đã nói nhiều lại nói nhanh. Chẳng thế mà đại phát thanh Pháp đã dành cho chị 20 giờ ghi âm, một trong số những thời gian ghi âm kỷ lục, để chị kể lại cuộc đời chiến đấu của mình. Phần lớn phóng sự ghi âm này kể về thời kỳ chị làm việc ở bưng biền miền Nam Việt Nam. Cuộc ghi âm cũng lại là một bét-xeo-lơ, có hàng vạn bức thư gửi tới hoan nghênh. Người nghe đã nhận ra khi Ma-đơ-len kể chuyện cũng hấp dẫn không khác gì khi Ma-đơ-len viết. Nói chuyện với chị tôi thấy chị thật giàu nghị lực, đầy ắp những vốn sống, những phân tích sắc sảo có đủ minh họa bằng những sự kiện lịch sử cộng với sự nhạy cảm tinh tế của một tâm hồn nghệ sĩ. Chị kể khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, chị muốn viết về một đề tài khác hơn là chiến tranh. Chị đã tới những nơi có chiến tranh, viết về những hạnh phúc và khổ đau trong chiến tranh. Nhưng còn chính nước Pháp của chị ? Phải chăng không có gì để nói, nhất là về những người lao động thầm lặng và cực nhọc ? Thế là chị đã quyết định viết về họ, đã đích thân xin làm hộ lý, thức đêm, thay băng, chăm sóc nâng giấc cho bệnh nhân để cuối cùng viết ra một thiên phóng sự làm rung động dư luận nước Pháp, đó là cuốn “Les Linges de la nuit” (tạm dịch Khăn trải giường đêm).

          Tranh thủ lúc chị ngừng câu chuyện để pha trà từ chiếc ấm giành tích giống như ở Việt Nam, tôi nhìn qua giá sách của chị. Có một mảnh xác máy bay Mỹ do ban chấp hành Đảng bộ nhà máy đóng tàu Bạch đằng Hải Phòng tặng chị ngày 1 tháng 8 năm 1966. Một cuốn sách đã ngả màu vàng ố được đặt cẩn thận bên cạch những cuốn bìa cứng khác. Tôi tò mò rút ra xem. Đó là cuốn “Xung Kích” của Nguyễn Đình Thi. Cầm cuốn sách, tôi chợt có ý nghĩ, chuyện về người nữ du kích Pháp có biệt hiệu là Ren-nơ, chuyện về nhà văn, nhà báo Ma-đơ-len Ri-phô, chuyện về người phụ nữ Pháp là chiến sĩ trong bưng biền miền Nam Việt Nam với cái tên thân yêu là chị Tám, những chuyện ấy thì mọi người đều đã nghe, đã đọc chỗ này chỗ khác. Nhưng còn chuyện một Ma-đơ-len yêu đương, đã từng si mê một anh bộ đội nhà thơ Việt Nam thì có mấy người biết. Tôi nhớ khi học văn tự thuật, vị giáo sư già của tôi từng nói từ tuổi 60 trở lên người ta thường chẳng giấu chuyện về những mối tình thời trẻ. Thế là tôi hỏi chị có thể kể cho cho tôi nghe chuyện tình của chị với Nguyễn Đình Thi được không. Chị cười, âu yếm nhìn tôi. Tôi chợt nhận thấy đôi mắt chị giống hệt đôi mắt Pi-cát-xô đã vẽ 50 năm về trước, đôi mắt nhìn xuống sâu đậm, thoáng buồn, ít dáng dấp của một người du kích mà nhiều suy tư, mơ màng, rất nhà thơ.

          Ma-đơ-len kể : “Chị gặp anh ấy lần đầu vào năm 1951 tại Đại hội liên hoan thanh niên thế giới tổ chức ở Béc-lanh, Cộng Hòa Dân Chủ Đức. Cuốn “Xung kích” em đang cầm là chị được tặng ở Đại hội này. Có khi chính tác giả của nó nay cũng không còn vì nhà xuất bản Văn nghệ lúc ấy chỉ in một số lượng ít trên loại giấy mỏng đặc biệt như giấy lụa. Chị đến Đại hội chậm một ngày. Ngay buổi sáng chị đến thì Đô-mi-níc là bạn chị trong đoàn Pháp đã tươi cười nói :

          - Này Ma-đơ-len, có một anh bộ đội trong đoàn Việt Nam tìm cậu đấy.

          - Để làm gì ?

          - Anh ấy hỏi mình trước khi cậu bị bọn phát xít bắn chết thì cậu có bài thơ nào khác ngoài bài “Lời ca” không. Mình buồn cười đến chết, bảo anh ấy cậu có bị xử bắn đâu vì đã trốn được. Mình bảo anh ấy cậu cũng đến đây, thế là anh ấy cứ rối lên tìm cậu từ hôm qua.

          - Chắc lại muốn hỏi về những ngày tớ bị phát xít bỏ tù chứ gì !

          Thật ra lúc ấy chị đã trả lời rất nhiều về những ngày tù tội, về việc bị bọn phát xít kết án tử hình nên rất ngại trả lời phỏng vấn. Cả bây giờ cũng vậy, sau khi chị đã nổi tiếng qua những phóng sự ở An-giê-ri và ở bưng biền Việt Nam, chị cũng không muốn kể về mình quá nhiều. Rất nhiều người khác như mình, họ cũng chiến đấu, cũng hy sinh dưới nhiều dạng vẻ khác nhau nhưng ít được nhắc tới, họ chiến đấu hy sinh trong thầm lặng nhưng cùng với một tình yêu tổ quốc và tự do như chúng ta.

          Ngay buổi tối hôm đó có một anh bộ đội trong đoàn Việt Nam đến tìm chị thật. Chị thấy anh cao, gầy nhưng có đôi mắt sáng và thông minh. Bọn chị tự giới thiệu với nhau và chị lấy làm lạ là anh ấy nói tiếng Pháp rất thạo. Lúc đầu câu chuyện xoay quanh bài thơ “Lời ca” của chị. Anh đã đọc cho chị nghe, say sưa, đầy tình cảm. Anh nói không ngờ chị còn sống, rằng sau khi xem bài thơ của chị anh nghĩ rằng chị đã bị bọn phát xít xử bắn và anh đã dịch bài thơ của chị, bây giờ muốn tìm những bài khác để giới thiệu với bạn đọc Việt Nam đang chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc mình. Lúc ấy chị mới biết anh ấy là nhà thơ, nhà văn, là tác giả cuốn “Xung kích” này đây.

          - Vâng, khi em học phổ thông chúng em cũng học cuốn “Xung kích” của nhà văn Nguyễn Đình Thi.

          - Bọn chị làm quen với nhau nhanh và dễ dàng. Hình như đã tồn tại sẵn một sự thông cảm và hiểu biết, người này bị cuốn hút bởi những chuyện về cuộc sống hoạt động chiến đấu của người kia cùng đồng đội của mình. Có cái gì rất giống nhau trong những ý tưởng về độc lập, tự do, bình đẳng, về ước mơ cho một cuộc sống tốt đẹp hơn trong hòa bình. Có thể bây giờ em không hiểu hết được nhưng với bọn chị lúc bấy giờ những tình cảm ấy thiêng liêng lắm. Nó là sợi dây ràng buộc, gắn bó tất cả những người cùng chiến đấu cho một mục tiêu chung trên thế giới là chống chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập dân tộc. Thi và chị thuộc về những người ấy, lại là nhà thơ, nhà văn, nhà báo nên cũng rất lãng man. Sau những cuộc họp và hội thảo chung chị thường đi dạo với Thi, chuyện trò như đã thân thiết từ lâu. Chị hỏi Thi làm sao lại có được bài thơ “Bài ca”. Thì ra là năm 1947, sau khi Bác Hồ thăm Pháp, Bác có đem theo về Việt Nam nhiều sách báo trong đó có tạp chí Ê-téc-nen đăng bài thơ của chị. Thi đã giới thiệu bài thơ này đồng thời nói với các đồng chí của mình là tác giả đã bị phát xít kết án tử hình, bài thơ làm trước khi ra trường bắn. Thi đã kể cho chị nghe rất nhiều chuyện về lịch sử, văn hóa và cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam. Cũng có thể nói rằng nội dung những câu chuyện của Thi đã cuốn hút chị nhiều hơn là lối kể duyên dáng và dí dỏm của Thi. Từ những câu chuyện ấy bọn chị đã quyết định tranh thủ những ngày ở Đại hội liên hoan để cùng làm sách giới thiệu Việt Nam với nhân dân Pháp. Thế là tối nào hai người cũng cặm cụi làm. Cuốn sách được in vào năm 1952 ở Pháp.

          - Chị có còn cuốn nào không ?

          Ma-đơ-len lần tìm trên giá sách và đưa tôi. Đó là cuốn “Les Baguettes de Jade” (tạm dịch Đôi đũa ngọc) đã cũ lắm, giấy ố vàng. Ma-đơ-len nhìn tôi chăm chú đọc, tủm tỉm cười :

          - Đây là cuốn sách hợp tác Pháp-Việt đầu tiên được xuất bản lúc bấy giờ. Cuốn sách giới thiệu về Việt Nam, nhất là về văn học. Anh Thi và chị làm cuốn sách thật mê, càng làm càng hiểu nhau, càng gắn bó. Chị cũng nhận thấy mình có những xúc động lạ thường mỗi khi phải tạm dừng công việc, chia tay nhau hoặc những lúc chờ đợi. Mọi người trong hai đoàn đều nhận thấy Thi và chị rất quấn quít. Một hôm nhà thơ Na-dim Hít-mét gọi chị ra riêng một chỗ, nói : “Cô bé, cô định kéo dài trong bao nhiêu lâu câu chuyện này với người đồng chí Việt Nam ?”. Chị đỏ mặt và hơi bực bội. Chị nói với Hít-mét : “Tôi không làm điều gì ngu xuẩn cả”. Hit-mét cười : “Thế không phải là Thi và cô đang yêu nhau sao. Cả liên hoan này đều biết, chỉ có hai người không biết là Thi và cô thôi”. Chị vừa xấu hổ vừa bực mình trả lời : “Cám ơn, anh Thi đang đợi tôi dịch thơ, tôi phải đi”. Chỉ buổi tối hôm ấy chị mới để ý đến ánh mắt nhìn của Thi, và qua ánh mắt ấy chị mới nhận rõ là Thi yêu chị.

-

        Ma-đơ-len Ri-phô và Nguyễn Đình Thi (ảnh sưu tầm trên mạng)

          Thế rồi liên hoan kết thúc, chị và Thi chia tay nhau vào một tối mùa thu. Chị buồn rũ người khi rời anh. Hình ảnh một người nhỏ nhắn, hơi gầy đã in đậm vào trái tim chị. Tận sâu trong lòng chị tự hỏi liệu Thi có vượt qua được cuộc chiến tranh này không và chị hứa sẽ cố làm mọi việc để cuộc chiến tranh này sớm kết thúc.

          Chị và Thi nhìn nhau, không nói gì về tình yêu nhưng nói bằng mắt. Hai người vẫn gọi nhau bằng đồng chí, vẫn nói những chuyện bâng quơ nhưng đều cảm nhận sự trống không của một cuộc tình chia ly. Tụi chị nhìn nhau thầm hỏi sẽ còn lại gì sau cuộc gặp này ? Ánh sáng ! Có bao giờ lại gặp lại nhau nữa ? Ánh sáng. Ánh sáng như bầu trời sao Béc-lanh đêm ấy, như những đêm sao trong khu du kích của chị và trên đường hành quân của Thi. Ánh sáng trong tim hai kẻ yêu nhau đang sắp xa nhau, buồn, nhưng hy vọng. Đấy là ý thơ đầu tiên để năm 1952, khi xa chị, Thi đã viết bài “Ngôi sao”. Như chị đã nói với em, bọn chị rất lãng mạn. Chị là nữ du kích Pháp, lại có tâm hồn nhạy cảm. Thi là bộ đội Việt Minh là nhà thơ. Nhưng bọn chị thấy hết trách nhiệm của mình, trách nhiệm với đồng đội, với đất nước. Ngay trong liên hoan Thi đã nói với chị là Thi rất sốt ruột, muốn quay trở về Tổ quốc. Chị cũng vậy, cũng mong quay trở về với các đồng chí của mình tiếp tục cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Chính cuộc đấu tranh chung ấy gắn bó mọi người với nhau và làm cho những kẻ lãng mạn như tụi chị cũng trở nên vô cùng trong sáng. Không một lời nói về tình yêu, không hôn nhau, thậm chí không cầm cả tay nhau. Giờ nghĩ lại vừa nuối tiếc, vừa buồn cười. Chỉ nhìn nhau, cái nhìn chứa đựng tất cả.

          Tối hôm cuối bọn chị vẫn còn làm việc, cố dịch cho xong một vài đoạn trong cuốn sách. Nhưng chị không thể nào tập trung nổi. Gần nửa đêm, trong phòng làm việc bước ra, ý nghĩ đầu tiên khi chị ngẩng nhìn trời sao mùa thu là chị sẽ mất Thi, rằng cuộc chiến tranh oai hùng nhưng khốc liệt sẽ lại cuốn hút Thi. Chị rùng mình trong cái lạnh đêm Thu Béc-lanh, lòng thắt lại, nhìn theo bóng nhỏ xiêu xiêu của người đồng chí, người bộ đội Việt Nam mà chị vừa kịp yêu mến thì đã phải chia ly rồi.

 

 

Thứ Bảy, 9 tháng 10, 2021

CHUYỆN NGOẠI GIAO THÚ VỊ 6 : NHỮNG TÌNH HUỐNG BIỂU HIỆN NGÔN NGỮ NGOẠI GIAO

 

          Vneconomy ngày 12/11/2014 đã dẫn tờ Wall Street Journal theo đó tại Diễn đàn Hợp tác châu Á-Thái Bình Dương (APEC) 2014 diễn ra ở Bắc Kinh, Trung Quốc, khi các nhà lãnh đạo các nước được Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình dẫn vào một căn phòng trang trí lộng lẫy, ông Putin quay về phía ông Obama nhận xét bằng tiếng Anh: “Căn phòng đẹp đấy chứ?”. Ông chủ Nhà Trắng lạnh lùng thể hiện sự đồng ý mà chẳng buồn nhìn sang ông chủ điện Kremlin. Thậm chí, Obama còn phớt lờ khi Putin vỗ vào vai ông từ phía sau, khi hai nhà lãnh đạo chuẩn bị ngồi xuống ghế đối diện với ông Tập Cận Bình.

          Một khoảnh khắc khác cũng được các phóng viên ghi lại là cái bắt tay “lạnh băng” giữa ông Tập Cận Bình và Thủ tướng Nhật Shinzo Abe trong cuộc gặp chính thức đầu tiên của hai nhà lãnh đạo. Những hình ảnh được phát đi trên sóng truyền hình quốc gia cho thấy khuôn mặt mà Wall Street Journal ví là “nặng như đeo đá” của ông Tập Cận Bình hướng về phía máy quay từ trước khi nhân viên thông dịch của ông Abe dịch xong lời chào mừng. Theo nhận xét của GS. John Delury thuộc Đại học Yonsei của Hàn Quốc, ông Tập Cận Bình trông “giống như một người đàn ông gặp bạn trai mới của vợ cũ”. 

          Những tình huống khó xử trong ngoại giao có thể xảy ra ngay cả khi mối quan hệ giữa các quốc gia là tốt đẹp, như những gì mà ông Putin đã gặp phải khi các nhà lãnh đạo xem trình diễn pháo hoa. Được xếp ghế ngổi bên cạnh đệ nhất phu nhân Trung Quốc Bành Lệ Viên tại một khu vực ngoài trời, nhà lãnh đạo Nga thể hiện sự “ga-lăng” khi khoác lên vai bà Bành Lệ Viên một tấm chăn màu xám. Chỉ vài giây sau bà Viên đã bỏ tấm chăn đó xuống và đưa nó cho một nhân viên tháp tùng.

Về phần mình, Tổng thống Philippines Benigno Aquino và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng không hài lòng với nhau, vì Manila thách thức các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh trên biển Đông.

Thủ tướng Nhật Abe thì khiến cả ông Tập Cận Bình lẫn Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye “khó chịu” vì một loạt vấn đề liên quan tới lịch sử thời chiến tranh và tranh chấp lãnh thổ trên biển.

Sau cuộc gặp với ông Abe, ông Tập Cận Bình cũng giữ khuôn mặt lạnh lùng tương tự khi chụp chung ảnh với ông Aquino trước khi các nhà lãnh đạo tham gia dạ tiệc chào mừng.

Ngược lại, khi ông Putin bước qua, ông Tập Cận Bình mỉm cười thân thiện và thể hiện điệu bộ như thể hai người tình cờ mặc trang phục giống nhau. Tối hôm đó tất cả các nhà lãnh đạo cùng mặc trang phục truyền thống Trung Quốc.

Ông Abe và bà Park Geun-hye không có cuộc gặp chính thức nào bên lề APEC, cho dù các nhà tổ chức Trung Quốc đã xếp cho hai nhà lãnh đạo này ngồi gần nhau trong dạ tiệc chào mừng. Theo một tuyên bố của Bộ Ngoại giao Nhật, hai nhà lãnh đạo Nhật và Hàn Quốc đã tranh thủ cơ hội không được lên kế hoạch trước này để thảo luận một loạt vấn đề.

Nhời bàn :

Các chuyên gia phân tích và những người từng làm trong ngành ngoại giao cho rằng, không nên suy đoán quá nhiều từ những tình huống khó xử trong các cuộc gặp của các nhà lãnh đạo, bởi những gì họ thể hiện đều đã được cân nhắc từ trước để tránh làm mất lòng dư luận trong nước.

 “Nếu không có sự diễn tập từ trước, thì chắc chắn cũng phải có thảo luận trước về những thứ như ngôn ngữ cơ thể, có nên cười hay không, nên bắt tay theo kiểu nào”, ông Donald Keyser, một quan chức về hưu của Bộ Ngoại giao Mỹ, cho biết về sự chuẩn bị của các nhà lanh đạo trước khi có các cuộc gặp.

Giáo sư Kerry Brown thuộc Đại học Sydney đồng thời từng là một nhà ngoại giao Anh ở Bắc Kinh nói rằng, một phần của những tình huống khó xử trong sự kiện APEC ở Bắc Kinh có thể xuất phát từ nghi lễ bắt tay của Trung Quốc vốn thường có xu hướng “rất cơ học”.  

Ông Brown cho rằng, điều này không hẳn là xấu nếu so với cách mà Thủ tướng Anh David Cameron thường áp dụng. “Ông ấy [Cameron] thường ôm hôn thắm thiết các nhà lãnh đạo nữ. Bởi vậy tôi cho rằng chúng ta nên cảm ơn các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã giúp chúng ta thoát khỏi điều đó”.  Ha ha ha !!!