Năm 1997, khi còn công tác ở Pháp, tôi đã đến thăm
một người bạn nổi tiếng của Việt Nam. Hôm ấy Paris rét dưới âm 5 độ nhưng tôi
thấy lòng mình thật ấm áp, còn hơn thế nữa, hơi bối rối, xúc động khi nghĩ rằng
mình sắp gặp một người chị, một nhà văn, nhà báo đã từng được họa sĩ Pi-cát-xô
vẽ chân dung, đã từng có những tác phẩm thuộc loại bét-xeo-lơ. Ấy vậy mà một phần
đời chính của chị lại dành cho Việt Nam, phần đời tranh đấu, phần đời người chiến
sĩ. Và cả phần đời yêu đương nữa. Chị chính là Ma-đơ-len Ri-phô.
Chân dung Ma-đơ-len Ri-phô năm 20 tuổi do họa sĩ Pi-cát-xô vẽ tặng.
Chị
ở tầng 5 chung cư số 13 phố Vin-hác-đu-anh. Cầu thang gỗ không trải thảm, thời
gian đã bào mòn từng bậc thang trơn bóng. Tôi se lòng khi nghĩ rằng ở tuổi hơn
bảy chục chị vẫn thường phải lên xuống 4 tầng cầu thang trơn và vòng tròn này.
Chị
ôm hôn tôi thật thắm thiết. Tôi hỏi : “Chị có biết tại sao em lại tặng chị 8
bông hồng không ?”. Chị hóm hỉnh : “Vì chị là chị Tám chứ còn gì nữa”. Hai chị
em tôi phá lên cười.
Hai
gian phòng gọn gàng xinh xắn, đồ đạc không cầu kỳ chứng tỏ chủ nhân là người giản
dị nhưng có gu. Một lồng chim to bên cạnh một chậu vạn niên thanh xanh tốt bò
quấn quít lên tận giá sách. Con chim chị nuôi là con họa mi, nhảy nhót tung tẩy
và bỗng cất tiếng hót say mê như chào đón khách. Trên tường chị treo hai bức
tranh lớn. Một là bức chân dung do họa sĩ Po-cát-xô vẽ tặng chị năm 1945, khi
chị mới 20 tuổi. Bên cạnh là tấm áp phích Việt Nam với hàng chữ “Không có gì
quý hơn độc lập tự do” nổi bật trên nền hồng của hoa sen. Bên dưới tấm áp-phích
có ghi “Tranh của Lê Thanh Đức, in tại nhà máy in Tiến Bộ, giá 0đ50”. Tôi tự hỏi
phải chăng số phận đã định sẵn một mối liên hệ gắn bó nào đó giữa người con gái
20 tuổi trong tranh của Pi-cát-xô, thực ra là người nữ du kích Pháp từ năm 17
tuổi, với sự nghiệp độc lập tự do của dân tộc Việt Nam mà người đại diện là Bác
Hồ.
Nói
chuyện với chị thật khó vì chị đã nói nhiều lại nói nhanh. Chẳng thế mà đại
phát thanh Pháp đã dành cho chị 20 giờ ghi âm, một trong số những thời gian ghi
âm kỷ lục, để chị kể lại cuộc đời chiến đấu của mình. Phần lớn phóng sự ghi âm
này kể về thời kỳ chị làm việc ở bưng biền miền Nam Việt Nam. Cuộc ghi âm cũng
lại là một bét-xeo-lơ, có hàng vạn bức thư gửi tới hoan nghênh. Người nghe đã
nhận ra khi Ma-đơ-len kể chuyện cũng hấp dẫn không khác gì khi Ma-đơ-len viết.
Nói chuyện với chị tôi thấy chị thật giàu nghị lực, đầy ắp những vốn sống, những
phân tích sắc sảo có đủ minh họa bằng những sự kiện lịch sử cộng với sự nhạy cảm
tinh tế của một tâm hồn nghệ sĩ. Chị kể khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, chị
muốn viết về một đề tài khác hơn là chiến tranh. Chị đã tới những nơi có chiến
tranh, viết về những hạnh phúc và khổ đau trong chiến tranh. Nhưng còn chính nước
Pháp của chị ? Phải chăng không có gì để nói, nhất là về những người lao động
thầm lặng và cực nhọc ? Thế là chị đã quyết định viết về họ, đã đích thân xin
làm hộ lý, thức đêm, thay băng, chăm sóc nâng giấc cho bệnh nhân để cuối cùng
viết ra một thiên phóng sự làm rung động dư luận nước Pháp, đó là cuốn “Les Linges
de la nuit” (tạm dịch Khăn trải giường đêm).
Tranh
thủ lúc chị ngừng câu chuyện để pha trà từ chiếc ấm giành tích giống như ở Việt
Nam, tôi nhìn qua giá sách của chị. Có một mảnh xác máy bay Mỹ do ban chấp hành
Đảng bộ nhà máy đóng tàu Bạch đằng Hải Phòng tặng chị ngày 1 tháng 8 năm 1966.
Một cuốn sách đã ngả màu vàng ố được đặt cẩn thận bên cạch những cuốn bìa cứng
khác. Tôi tò mò rút ra xem. Đó là cuốn “Xung Kích” của Nguyễn Đình Thi. Cầm cuốn
sách, tôi chợt có ý nghĩ, chuyện về người nữ du kích Pháp có biệt hiệu là
Ren-nơ, chuyện về nhà văn, nhà báo Ma-đơ-len Ri-phô, chuyện về người phụ nữ
Pháp là chiến sĩ trong bưng biền miền Nam Việt Nam với cái tên thân yêu là chị
Tám, những chuyện ấy thì mọi người đều đã nghe, đã đọc chỗ này chỗ khác. Nhưng
còn chuyện một Ma-đơ-len yêu đương, đã từng si mê một anh bộ đội nhà thơ Việt
Nam thì có mấy người biết. Tôi nhớ khi học văn tự thuật, vị giáo sư già của tôi
từng nói từ tuổi 60 trở lên người ta thường chẳng giấu chuyện về những mối tình
thời trẻ. Thế là tôi hỏi chị có thể kể cho cho tôi nghe chuyện tình của chị với
Nguyễn Đình Thi được không. Chị cười, âu yếm nhìn tôi. Tôi chợt nhận thấy đôi mắt
chị giống hệt đôi mắt Pi-cát-xô đã vẽ 50 năm về trước, đôi mắt nhìn xuống sâu đậm,
thoáng buồn, ít dáng dấp của một người du kích mà nhiều suy tư, mơ màng, rất
nhà thơ.
Ma-đơ-len
kể : “Chị gặp anh ấy lần đầu vào năm 1951 tại Đại hội liên hoan thanh niên thế
giới tổ chức ở Béc-lanh, Cộng Hòa Dân Chủ Đức. Cuốn “Xung kích” em đang cầm là
chị được tặng ở Đại hội này. Có khi chính tác giả của nó nay cũng không còn vì
nhà xuất bản Văn nghệ lúc ấy chỉ in một số lượng ít trên loại giấy mỏng đặc biệt
như giấy lụa. Chị đến Đại hội chậm một ngày. Ngay buổi sáng chị đến thì
Đô-mi-níc là bạn chị trong đoàn Pháp đã tươi cười nói :
-
Này Ma-đơ-len, có một anh bộ đội trong đoàn Việt Nam tìm cậu đấy.
- Để
làm gì ?
-
Anh ấy hỏi mình trước khi cậu bị bọn phát xít bắn chết thì cậu có bài thơ nào
khác ngoài bài “Lời ca” không. Mình buồn cười đến chết, bảo anh ấy cậu có bị xử
bắn đâu vì đã trốn được. Mình bảo anh ấy cậu cũng đến đây, thế là anh ấy cứ rối
lên tìm cậu từ hôm qua.
-
Chắc lại muốn hỏi về những ngày tớ bị phát xít bỏ tù chứ gì !
Thật
ra lúc ấy chị đã trả lời rất nhiều về những ngày tù tội, về việc bị bọn phát
xít kết án tử hình nên rất ngại trả lời phỏng vấn. Cả bây giờ cũng vậy, sau khi
chị đã nổi tiếng qua những phóng sự ở An-giê-ri và ở bưng biền Việt Nam, chị
cũng không muốn kể về mình quá nhiều. Rất nhiều người khác như mình, họ cũng
chiến đấu, cũng hy sinh dưới nhiều dạng vẻ khác nhau nhưng ít được nhắc tới, họ
chiến đấu hy sinh trong thầm lặng nhưng cùng với một tình yêu tổ quốc và tự do
như chúng ta.
Ngay
buổi tối hôm đó có một anh bộ đội trong đoàn Việt Nam đến tìm chị thật. Chị thấy
anh cao, gầy nhưng có đôi mắt sáng và thông minh. Bọn chị tự giới thiệu với
nhau và chị lấy làm lạ là anh ấy nói tiếng Pháp rất thạo. Lúc đầu câu chuyện
xoay quanh bài thơ “Lời ca” của chị. Anh đã đọc cho chị nghe, say sưa, đầy tình
cảm. Anh nói không ngờ chị còn sống, rằng sau khi xem bài thơ của chị anh nghĩ
rằng chị đã bị bọn phát xít xử bắn và anh đã dịch bài thơ của chị, bây giờ muốn
tìm những bài khác để giới thiệu với bạn đọc Việt Nam đang chiến đấu cho độc lập
của Tổ quốc mình. Lúc ấy chị mới biết anh ấy là nhà thơ, nhà văn, là tác giả cuốn
“Xung kích” này đây.
-
Vâng, khi em học phổ thông chúng em cũng học cuốn “Xung kích” của nhà văn Nguyễn
Đình Thi.
- Bọn
chị làm quen với nhau nhanh và dễ dàng. Hình như đã tồn tại sẵn một sự thông cảm
và hiểu biết, người này bị cuốn hút bởi những chuyện về cuộc sống hoạt động chiến
đấu của người kia cùng đồng đội của mình. Có cái gì rất giống nhau trong những
ý tưởng về độc lập, tự do, bình đẳng, về ước mơ cho một cuộc sống tốt đẹp hơn
trong hòa bình. Có thể bây giờ em không hiểu hết được nhưng với bọn chị lúc bấy
giờ những tình cảm ấy thiêng liêng lắm. Nó là sợi dây ràng buộc, gắn bó tất cả
những người cùng chiến đấu cho một mục tiêu chung trên thế giới là chống chủ
nghĩa đế quốc, giành độc lập dân tộc. Thi và chị thuộc về những người ấy, lại
là nhà thơ, nhà văn, nhà báo nên cũng rất lãng man. Sau những cuộc họp và hội
thảo chung chị thường đi dạo với Thi, chuyện trò như đã thân thiết từ lâu. Chị
hỏi Thi làm sao lại có được bài thơ “Bài ca”. Thì ra là năm 1947, sau khi Bác Hồ
thăm Pháp, Bác có đem theo về Việt Nam nhiều sách báo trong đó có tạp chí
Ê-téc-nen đăng bài thơ của chị. Thi đã giới thiệu bài thơ này đồng thời nói với
các đồng chí của mình là tác giả đã bị phát xít kết án tử hình, bài thơ làm trước
khi ra trường bắn. Thi đã kể cho chị nghe rất nhiều chuyện về lịch sử, văn hóa
và cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam. Cũng có thể nói rằng nội dung những
câu chuyện của Thi đã cuốn hút chị nhiều hơn là lối kể duyên dáng và dí dỏm của
Thi. Từ những câu chuyện ấy bọn chị đã quyết định tranh thủ những ngày ở Đại hội
liên hoan để cùng làm sách giới thiệu Việt Nam với nhân dân Pháp. Thế là tối
nào hai người cũng cặm cụi làm. Cuốn sách được in vào năm 1952 ở Pháp.
-
Chị có còn cuốn nào không ?
Ma-đơ-len
lần tìm trên giá sách và đưa tôi. Đó là cuốn “Les Baguettes de Jade” (tạm dịch
Đôi đũa ngọc) đã cũ lắm, giấy ố vàng. Ma-đơ-len nhìn tôi chăm chú đọc, tủm tỉm
cười :
-
Đây là cuốn sách hợp tác Pháp-Việt đầu tiên được xuất bản lúc bấy giờ. Cuốn
sách giới thiệu về Việt Nam, nhất là về văn học. Anh Thi và chị làm cuốn sách
thật mê, càng làm càng hiểu nhau, càng gắn bó. Chị cũng nhận thấy mình có những
xúc động lạ thường mỗi khi phải tạm dừng công việc, chia tay nhau hoặc những
lúc chờ đợi. Mọi người trong hai đoàn đều nhận thấy Thi và chị rất quấn quít. Một
hôm nhà thơ Na-dim Hít-mét gọi chị ra riêng một chỗ, nói : “Cô bé, cô định kéo
dài trong bao nhiêu lâu câu chuyện này với người đồng chí Việt Nam ?”.
Chị đỏ mặt và hơi bực bội. Chị nói với
Hít-mét : “Tôi không làm điều gì ngu xuẩn cả”. Hit-mét cười : “Thế không phải
là Thi và cô đang yêu nhau sao. Cả liên hoan này đều biết, chỉ có hai người
không biết là Thi và cô thôi”. Chị vừa xấu hổ vừa bực mình trả lời : “Cám ơn,
anh Thi đang đợi tôi dịch thơ, tôi phải đi”. Chỉ buổi tối hôm ấy chị mới để ý đến
ánh mắt nhìn của Thi, và qua ánh mắt ấy chị mới nhận rõ là Thi yêu chị.
-
Ma-đơ-len Ri-phô và Nguyễn Đình Thi (ảnh sưu tầm trên mạng)
Thế
rồi liên hoan kết thúc, chị và Thi chia tay nhau vào một tối mùa thu. Chị buồn
rũ người khi rời anh. Hình ảnh một người nhỏ nhắn, hơi gầy đã in đậm vào trái
tim chị. Tận sâu trong lòng chị tự hỏi liệu Thi có vượt qua được cuộc chiến
tranh này không và chị hứa sẽ cố làm mọi việc để cuộc chiến tranh này sớm kết
thúc.
Chị
và Thi nhìn nhau, không nói gì về tình yêu nhưng nói bằng mắt. Hai người vẫn gọi
nhau bằng đồng chí, vẫn nói những chuyện bâng quơ nhưng đều cảm nhận sự trống
không của một cuộc tình chia ly. Tụi chị nhìn nhau thầm hỏi sẽ còn lại gì sau
cuộc gặp này ? Ánh sáng ! Có bao giờ lại gặp lại nhau nữa ? Ánh sáng. Ánh sáng
như bầu trời sao Béc-lanh đêm ấy, như những đêm sao trong khu du kích của chị
và trên đường hành quân của Thi. Ánh sáng trong tim hai kẻ yêu nhau đang sắp xa
nhau, buồn, nhưng hy vọng. Đấy là ý thơ đầu tiên để năm 1952, khi xa chị, Thi
đã viết bài “Ngôi sao”. Như chị đã nói với em, bọn chị rất lãng mạn. Chị là nữ
du kích Pháp, lại có tâm hồn nhạy cảm. Thi là bộ đội Việt Minh là nhà thơ.
Nhưng bọn chị thấy hết trách nhiệm của mình, trách nhiệm với đồng đội, với đất
nước. Ngay trong liên hoan Thi đã nói với chị là Thi rất sốt ruột, muốn quay trở
về Tổ quốc. Chị cũng vậy, cũng mong quay trở về với các đồng chí của mình tiếp
tục cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Chính cuộc đấu tranh chung ấy gắn
bó mọi người với nhau và làm cho những kẻ lãng mạn như tụi chị cũng trở nên vô
cùng trong sáng. Không một lời nói về tình yêu, không hôn nhau, thậm chí không
cầm cả tay nhau. Giờ nghĩ lại vừa nuối tiếc, vừa buồn cười. Chỉ nhìn nhau, cái
nhìn chứa đựng tất cả.
Tối
hôm cuối bọn chị vẫn còn làm việc, cố dịch cho xong một vài đoạn trong cuốn
sách. Nhưng chị không thể nào tập trung nổi. Gần nửa đêm, trong phòng làm việc
bước ra, ý nghĩ đầu tiên khi chị ngẩng nhìn trời sao mùa thu là chị sẽ mất Thi,
rằng cuộc chiến tranh oai hùng nhưng khốc liệt sẽ lại cuốn hút Thi. Chị rùng
mình trong cái lạnh đêm Thu Béc-lanh, lòng thắt lại, nhìn theo bóng nhỏ xiêu
xiêu của người đồng chí, người bộ đội Việt Nam mà chị vừa kịp yêu mến thì đã phải
chia ly rồi.