Mở đầu cuốn sách, trong bối cảnh nền kinh tế nước ta
những năm 1980 gặp rất nhiều khó khăn, ở một trường đại học nọ có giảng viên
Bùi Khoái đang rất muốn thoát khỏi cảnh nghèo túng. Trong bộ môn của anh đã có
2 người “tự cứu” bằng cách nuôi lợn chui trong khu tập thể; 1 cuốn thuê
xú-vôn-tơ; 3 lặng lẽ chuồn ra ngoài dạy thêm... Còn anh, tìm được bí quyết tạo
ra sự gắn kết giữa cao su và tấm mành lưới đã hăng hái vay tiền mua máy ép nóng
lập xưởng sản xuất lốp xe đạp. Cơ chế chính sách thời ấy chưa cho phép anh làm
giàu kiểu như vậy, nên đã sớm “sập tiệm” và lâm vào cảnh nợ đầm đìa. Vợ sắp
sinh, bố, rồi chị dâu ở quê đau yếu nặng đang cần tiền thuốc thang, để cứu nhà
Bùi Khoái chỉ còn cách bỏ nghề, xuất khẩu lao động sang các nước XHCN Đông Âu.
Và anh trở thành đội trưởng lao động ở một nhà máy sản xuất phụ tùng ô tô thủ
đô Pra-ha, nước Tiệp. Câu chuyện bươn trải kiếm đồng tiền bát gạo nơi xứ người
bắt đầu từ đây. Ngay trong năm đầu lãnh trách nhiệm đội trưởng trong nhà máy,
anh đã “chân ngoài dài hơn chân trong” buôn bán đủ thứ, giao du với đủ hạng người,
được mất liên tiếp và có lúc còn suýt đánh đổi cả mạng sống của mình. Ở môi trường
kinh doanh chụp dật như thế, anh phải làm lại từ đầu, học những bài sơ đẳng về
kinh doang, đại loại như lời dạy dỗ của một cô công nhân người Hải Phòng đã đi
xuất khẩu trước anh: “Làm ăn dễ thôi, mình có hàng thì đem bán. Bán có tiền lại
đi ôm của người khác về. Cứ thế quay vòng cho vốn lớn lên”(Trang 61); hoặc:
“Anh ngốc ạ, trong khi chưa gửi được về thì mình bán lại cho người ta. Miễn là
có lãi. Để chất đống trong nhà làm gì. Bằng lòng ăn ít thôi nhưng nhanh được
ăn, vốn mau tăng. Có vốn thì lại đánh được nhiều hàng.”(Trang 73)...Tác giả tả
lúc anh “tân binh” ấy đi giao hàng lậu bằng những dòng khá sinh động, hóm hỉnh:
“Bùi Khoái và Đình Dũng tiến đến ngồi xuống ghế, vẫn không ai nói gì, nghe rõ
tiếng tim đập thình thịch trong ngực...đến khi mở cửa phòng rồi khép chặt cửa lại,
cả hai mới thở phào và phá lên cười: Mẹ kiếp cứ như biệt động Sài Gòn ấy.”(Trang
88). Thế rồi trong hoàn cảnh liên tục gặp thất bát, tai bay vạ gió cũng làm anh
ta khôn lanh lên nhiều, có lúc còn đứng ra lập hẳn một xưởng may quần bò jens
đem bán xỉ hoặc đóng hàng gửi về nước. Đến khi anh tích cóp được một món tiền
kha khá định để “mở rộng sản xuất” và gửi về nước trả nợ, thì bị bọn xã hội đen
“khoắng” sạch. Choáng váng, tưởng như bị quỵ hẳn. Bạn bè xúm lại đỡ anh đứng dậy,
họ giúp anh những lúc hoạn nạn vì thấy anh là người trọng tín nghĩa. Trước lúc
đi xuất khẩu, Bùi Khoái đã phải đôn đáo vay nợ nhiều nơi, đều hứa sang nước người
làm ăn có tiền sẽ sớm gửi về trả. Có ông bạn đồng nghiệp cùng trường láu cá, ra
điều kiện “dễ dãi” là vay bao nhiêu đồng Việt Nam thì trả đúng bấy nhiêu đồng
cu-run Tiệp chuyển đổi bằng hiện vật. Khi anh trả số nợ qua một người quen của
tay láu cá ấy, dù biết mình bị mắc lỡm, một đồng cu- run ăn những bốn, năm đồng
Việt và đã có người bày cho cách vẫn trả đủ bằng hiện vật, mà mình lại đỡ bị
thiệt thòi, nhưng anh vẫn nhất quyết trả đúng bằng số cu-run như đã hứa. Chính
vì trọng chữ “tín”, mà khi làm ăn ở Tiệp bị trắng tay phải bán xới sang nước láng giềng là Ba
Lan, Bùi Khoái lại có được thành công, lần này lớn hơn, vững chắc hơn. Nhờ sự
giúp đỡ của một “soái” vốn là học trò từng tham gia vào công trình ép lốp xe đạp
ở nhà, anh lập ra hợp tác xã mua bán, mở công ty buôn bán quần áo, mở nhà hàng
ăn uống các món đặc sản Việt Nam, rồi cho thuê kho bãi, dịch vụ vận chuyển...Cũng
có nhiều kẻ xấu định hại anh, cướp hàng, thậm chí còn định “xơi tái”, song
trong quá trình hơn chục năm làm ăn ở xứ người anh có rất nhiều bạn tốt, cưu
mang giúp đỡ trong lúc hoạn nạn. Nhân vật chính được tác giả dày công khắc họa
là một con người tử tế, song không phải anh ta không có lúc mù quáng, mắc sai lầm,
mà là sai lầm nghiêm trọng suýt đổ vỡ lâu đài hạnh phúc anh đã dày công vun đắp.
Ấy là khi xuất hiện nhân vật “nữ quái” Minh Thúy. Lúc cô ta đang thất cơ lỡ vận,
phải đứng trong tuyết bán hàng rong ngoài chợ thì tình cờ gặp “soái” Bùi Khoái.
Tuy anh vốn không phải kẻ háo sắc, song lại “máu” có con trai nối dõi tông đường.
Con gái anh đã lớn và Thanh, vợ anh thì ốm yếu. Trước một Minh Thúy “gái một
con mòn con mắt” anh đã không cầm lòng và nhanh chóng đi đến quyết định lén lút
qua lại với cô, cưu mang cô, biến cô thành bồ nhí. Đọc vị được đối tác và chớp
thời cơ để mong thành bà chủ giàu có, cô ta đã lừa Bùi Khoái trong một màn kịch
“hôn nhân giả”. Đến phút cuối, khi sắp sa chân xuống vực thì nhân vật chính của
chúng ta mới sực bừng tỉnh. Đoạn kết của tấn bi hài ấy, anh đối thoại với
Thanh, người vợ thủy chung, đôn hậu: “Cô chậm bước những bước dứt khoát đi vào
trong phòng, tay run run cầm ra một chiếc phong bì đưa cho Bùi Khoái. Bùi Khoái
mở phong bì, đứng chết lặng. Không đọc hết anh cầm lá đơn ly hôn xé vụn...”(Trang
395). Dù sao, tác giả cho nhân vật chính của mình “thoát hiểm” theo cái cách
như thế, một cái kết có hậu như thế cũng là muốn người đọc không cảm thấy hụt hẫng,
tiếc nuối như trong nhiều tiểu thuyết tâm lý xã hội thường khai thác bi kịch
hôn nhân đổ vỡ diễn ra trong các gia
đình thời hiện đại. Cái kết của cuốn
sách là có hậu, như câu ngạn ngữ “ở hiền gặp lành”. Coi trọng chữ “Tín” là bản
năng trong con người anh. Ngay cả sau này, khi Bùi Khoái đã trở thành một nhà
kinh doanh có tiếng, tính cách ấy vẫn được nhận ra trong các tình huống. Đấy là
dụng ý xuyên suốt khi xây dựng nhân vật Bùi Khoái của tác giả Thăng Sắc.