(Tham luận tại Hội nghị Việt Nam học lần thứ IV tại Hà nội,
25-28/11/2012)
Thưa
quý vị đại biểu,
Tôi rất phấn khởi có cơ hội được gập mặt
đông đảo các nhà nghiên cứu về Việt Nam từ khắp các châu lục tới thủ đô Hà nội để
tham dự Hội nghị Việt Nam học lần thứ tư, thể hiện sự quan tâm sâu sắc và mối cảm
tình nồng thắm của quý vị đối với đất nước chúng tôi. Đây chẳng những là niềm
vinh dự mà còn là nguồn động viên to lớn đối với Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để cung cấp thêm thông tin cho các bạn
về một khía cạnh quan trọng trong sự phát triển của đất nước mình là hoạt động
ngoại giao, tôi xin chia xẻ một số suy ngẫm riêng tư về những truyền thống hình
thành trong lĩnh vực này từ ngày Việt Nam trở thành quốc gia độc lập vào năm
1945 và sự tiếp nối những truyền thống đó trong thời kỳ “đổi mới”.
Thưa quý vị,
1.Cũng giống như bất kỳ quốc gia nào
khác, mục tiêu của nền ngoại giao Việt
Nam
bắt nguồn từ lợi ích quốc gia – dân tộc trong sự gắn kết với xu thế thời đại và
cục diện thế giới. Trước sau như một nền ngoại giao Việt Nam luôn theo đuổi ba mục tiêu chủ
yếu: giành và giữ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo dựng môi
trường quốc tế thuận lợi để kiến quốc; và không ngừng nâng cao vị thế của mình ở
khu vực và trên thế giới.
Ba mục
tiêu ấy là một thể thống nhất, gắn kết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, tuỳ
tình hình cụ thể từng lúc ở trong nước và cục diện thế giới, mục tiêu này hay mục
tiêu khác nổi lên như một ưu tiên hàng đầu.
Vừa
ra đời, nước Việt Nam độc lập đã bị đủ loại thù trong giặc ngoài dòm ngó, xâu xé
và trong mấy thập kỷ liền phải đương đầu với hết cuộc chiến tranh này tới cuộc
chiến tranh khác, chủ quyền bị xâm hại, giang sơn bị chia cắt rồi đất nước bị
bao vây, cô lập. Trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy, điều dễ hiểu là mục tiêu giành
lại và giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ nổi lên như một
mục tiêu hàng đầu của nền ngoại giao Việt Nam.
Nền
ngoại giao Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu này thông
qua các hoạt động đầy cam go nhưng cũng đầy tính sáng tạo trong năm 1945- 1946
cũng như những năm sau này, trong đó nổi lên những mốc lớn như: Hội nghị Giơ-ne-vơ
năm 1954 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông dương, cuộc hoà đàm
Pa-ri kéo dài từ năm 1968 tới năm 1973 với việc ký Hiệp định chấm dứt chiến
tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Đó là chưa kể Hội nghị Giơ-ne-vơ về Lào năm
1962 và Hội nghị Pa-ri về Căm-pu-chia năm 1991 mà Việt Nam đã tham gia trực tiếp.
Một mục tiêu lớn khác mà nền ngoại
giao Việt Nam
theo đuổi là tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi, mở rộng hợp tác để phát triển.
Ngay từ những ngày đầu, dù còn phải đối phó với cả giặc đói, giặc dốt lẫn giặc
ngoại xâm, Việt Nam
đã đưa ra nhiều thông điệp rõ ràng và mạnh mẽ về một chính sách rộng mở với thế
giới bên ngoài. Tuy nhiên, những tín hiệu ấy đã bị tiếng bom đạn lấn át và chính
sách bao vây, cấm vận Việt Nam
quây lại. Trước thời kỳ “đổi mới” được khởi động vào năm 1986 hoạt động ngoại
giao trong lĩnh vực kinh tế mà ngày nay chúng tôi gọi là “ngoại giao kinh tế”
chủ yếu mới chỉ tập trung vào việc tranh thủ viện trợ của nước ngoài để kháng
chiến và xây dựng miền Bắc.
Trước năm 1945, tên gọi Việt Nam không có trên bản đồ thế giới mà chỉ là một
thuộc địa của Pháp bị chia cắt thành ba miền: Bắc kỳ, Trung Kỳ và Nam kỳ. Ngay
sau khi giành được độc lập, Việt Nam đã có những nỗ lực lớn lao nhằm
tranh thủ sự công nhận ngoại giao của các nước, xác lập vị thế xứng đáng của mình
trong cộng đồng quốc tế. Mặc dầu vậy, do hoàn cảnh khách quan lúc đó nên thành
tựu về mặt này có phần hạn chế; mãi từ năm 1950 trở đi quan hệ ngoại giao mới được
thiết lập với các nước XHCN và các
nước dân tộc độc lập cùng vài nước công nghiệp phát triển.
Kể từ
khi phát động công cuộc “đổi mới”, ba mục tiêu ấy vẫn giữ nguyên giá trị, trong
đó nổi lên hàng đầu nhiệm vụ bảo đảm môi trường quốc tế thuận lợi để thực hiện
nhiệm vụ trung tâm của đất nước là phát triển kinh tế - xã hội. Theo hướng này,
hoạt động ngoại giao đã được triển khai sâu rộng, mạnh mẽ; chính sách bao vây cô
lập Việt Nam đã bị đẩy lùi; thị trường đuợc mở rộng, số lượng đối tác gia tăng
chưa từng thấy. Đặc biệt, nắm bắt xu thế toàn cầu hoá và xuất phát từ nhu cầu
phát triển của bản thân, Việt Nam
đã hội nhập hoàn toàn với nền kinh tế khu vực và thế giới mà việc gia nhập WTO
vào 5 năm trước đây là một cái mốc lịch sử.
Kết quả là từ năm 1986 tới 2011, kim ngạch xuất-nhập
khẩu đã tăng từ khoảng 3 tỷ lên trên 203 tỷ USĐ, trong đó giá trị xuất khẩu
tăng từ 800 triệu lên gần 97 tỷ; tổng số vốn đầu tư nước ngoài từ con số “0” đã
đạt gần 89 tỷ USĐ vốn thực hiện; nếu như viện trợ nước ngoài không còn sau khi
Liên xô giải thể thì từ năm 1991 tới năm 2011 viện trợ phát triển chính thức đã
đạt con số trên ba chục tỷ. Những thành tựu đầy ấn tượng đó đã góp phần quan trọng
vào việc gia tăng tổng lực của đất nước chúng tôi, đưa Việt Nam từ một nước có
thu nhập tính theo đầu người vẻn vẹn có 86 USĐ năm 1988 vào hàng các nước có
thu nhập trung bình với 1.168 USD/người vào năm 2010 theo thời giá.
Ngày
nay Việt Nam đã bước sang giai đoạn mới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
thể hiện trong việc tiến hành đàm phán với một loạt nước về Khu vực mậu dịch tự
do (FTA) như cuộc đàm phán về Đối tác thương mại Thái Bình Dương (TPP), thiết
lập FTA với EU, Hàn Quốc, Liên minh thuế quan Nga – Biê-la-rút-xơ - Ca-dắc-xtan…
Mặc
dầu Việt Nam đã trở thành một quốc gia hoàn toàn độc lập, giang sơn thu về một
mối, song mục tiêu giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ vẫn còn nguyên giá trị
do những diễn biến phức tạp ở khu vực và trên thế giới. Trong hoàn cảnh mới,
khi hoà bình, hợp tác trở thành xu thế lớn trong quan hệ quốc tế, các tranh
chấp được đưa vào kênh đàm phán thì ngoại giao đóng vai trò xung kích trong việc
bảo đảm mục tiêu này. Và trên thực tế, thông qua đàm phán ngoại giao chúng tôi đã
giải quyết được hàng loạt vấn đề biên giới lãnh thổ với các nước láng giềng. Đó
là các thoả thuận về biên giới trên bộ với Lào, Căm-pu-chia và Trung Quốc; về
hợp tác khai thác với Ma-lai-xia ở vùng chồng lấn trên biển; phân chia vùng chồng
lấn trên biển với Thái lan; phân chia vịnh Bắc bộ với Trung Quốc và phân chia
thềm lục địa với In-đô-nê-xia. Những thoả thuận này chẳng những làm rõ cương vực
của quốc gia để quản lý, khai thác mà còn góp phần quan trọng vào xu thế hoà bình,
ổn định và hợp tác trong khu vực. Bên cạnh đó các thỏa thuận về hợp tác trong
việc phòng chống các mối đe dọa phi truyền thống được mở rộng; sự giao lưu và
hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh ngày một gia tăng, góp phần giảm
thiểu căng thẳng, tăng cường tin cậy.
Ngày nay đang nổi lên những khác biệt, tranh
chấp trên biển Đông liên quan tới các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ
quyền của Việt Nam cũng như vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước
ven bờ thể theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982. Tiếp tục truyền
thống của nền ngoại giao Việt Nam, một mặt chúng tôi tiếp tục kiên trì bảo vệ
chủ quyền, quyền chủ quyền của mình, mặt khác chúng tôi luôn giương cao ngọn cờ
hoà bình và công lý, chủ trương thông qua thương lượng ngoại giao và dựa trên
luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật biển nói trên để tìm ra giải pháp cơ bản
và lâu dài; trong khi chưa đạt được điều này thì điều quan trọng là các nước
hữu quan hãy triệt để tôn trọng thỏa thuận giữa ASEAN và Trung Quốc về cách ứng
xử trên biển Đông (DOC) và tích cực đàm phán để đi tới Bộ quy tắc ứng xử (COC)
mang tính toàn diện và tính ràng buộc cao hơn.
Nhờ
lòng dũng cảm và chí kiên cường trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, nhờ những đóng
góp cho sự nghiệp độc lập và hoà bình trên thế giới, nhờ những thành tựu trong
công cuộc đổi mới và một chính sách đối ngoại hoà hiếu, rộng mở, vị thế của Việt
Nam ở khu vực và trên thế giới được nâng cao hơn bao giờ hết. Ngày nay nước chúng
tôi đã có quan hệ ngoại giao với 197 quốc gia, kể cả 5 nước uỷ viên thường trực
Hội đồng Bảo an LHQ; có chân trong hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực quan
trọng như Liên Hợp Quốc, Phong trào Không liên kết, ASEAN,
APEC, ASEM, Diễn đàn Đông Á, Cộng đồng có sử dụng tiếng Pháp…
Một
nét mới là ngày nay Việt Nam chủ trương tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn
diện chứ không chỉ hội nhập về kinh tế, phát huy vai trò một thành viên tích cực
của tất cả các tổ chức quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
2.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn chúng tôi: “Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng
lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới
lớn”[1].Nhưng lực lượng
vật chất của nước chúng tôi rất hạn hẹp lại luôn phải đương đầu với các đối thủ
mạnh hơn mình gấp bội về vật chất, vậy lấy đâu ra thực lực để hỗ trợ cho ngoại
giao?
Trong
ngôn ngữ Việt Nam
các bạn thường bắt gập từ “kết hợp”, một khái niệm phản ánh tư duy cổ truyền ở
phương Đông. Trong ngoại giao cũng vậy, Việt Nam luôn vận dụng khái niệm “kết hợp”
để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Theo tinh thần đó, việc huy động và củng cố sức mạnh
vật chất luôn được kết hợp chặt chẽ với việc huy động và phát huy sức mạnh tinh
thần; sức mạnh tự thân luôn được kết hợp với sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc
tế.
Chúng
tôi cho rằng , sức mạnh tinh thần mà nay
nhiều người gọi là “sức mạnh mềm” đóng vai trò rất quan trọng. Tính chính nghĩa
của những mục tiêu chúng tôi theo đuổi kết hợp với truyền thống yêu nước nồng nàn,
ý chí quật cường chống ngoại xâm là nhân tố gắn kết toàn dân tộc, là tiếng kèn
thúc giục mọi người dân Việt Nam
xung trận bảo vệ đất nước. Những truyền thống quý báu ấy cộng với sự cần cù vốn
có đã được phát huy trong lao động hoà bình, tạo nên sức mạnh ngày càng lớn của
quốc gia. Đó là chưa kể vị trí địa - kinh tế và địa – chính trị thuận lợi và chính
sách rộng mở gia tăng tính hấp dẫn của Việt Nam đối với các nước trong cộng
đồng quốc tế, bổ sung đáng kể cho sức mạnh quốc gia.
Ngay
trong việc huy động và tổ chức lực lượng trong nước, cách tiếp cận “kết hợp” cũng
được quán triệt. Trong thời chiến, đó là
sự kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự và chính trị. Trong thời
bình, đó là “ngoại giao chính trị” kết hợp chặt chẽ với “ngoại giao kinh tế”, “ngoại
giao văn hoá”, “ngoại giao quốc phòng – an ninh” và nay cả “ngoại giao môi trường”.
Và trong mọi tình huống, hoạt động ngoại giao của Nhà nước luôn gắn kết chặt chẽ
với hoạt động quốc tế của Đảng và những hoạt động ngoại giao của các tầng lớp
nhân dân.
Nói
như vậy hoàn toàn không có nghĩa “sức mạnh cứng” bị xem nhẹ. Không có chiến thắng
Điện Biên Phủ tháng 5 năm 1954 thì không
thể có Hiệp định Giơ-ne-vơ 2 tháng sau đó; không có chiến thắng trong trận “Điện
Biên Phủ trên không” khi không lực Hoa kỳ dùng hàng đàn máy bay, kể cả pháo đài
bay B-52 ồ ạt không kích Hà nội, Hải phòng… vào đúng 40 năm trước đây thì cũng
không thể có Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình năm 1973;
không có những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới thì cũng không thể mở rộng
quan hệ hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
Tuy
coi sức mạnh nội thân là nhân tố có ý nghĩa hàng đầu, Việt Nam luôn gắn mình với các trào lưu
lớn của thời đại. Những mục tiêu nhân dân chúng tôi theo đuổi luôn thuận chiều
với những xu thế lớn trên thế giới là quyền độc lập cho mọi quốc gia, quyền tự
quyết cho mọi dân tộc, hòa bình cho toàn thế giới, sự hợp tác bình đẳng giữa tất
cả các nước dù lớn hay nhỏ. Chính nhờ vậy mà suốt gần bảy chục năm qua nhân dân
Việt Nam luôn luôn giành được mối đồng cảm sâu sắc, sự ủng hộ quý báu của nhân
dân các nước, ngay cả nhân dân các nước tiến hành xâm lược đất nước chúng tôi,
tạo nên sức mạnh lớn lao giúp chúng tôi giành thắng lợi.
3.
Kinh nghiệm lịch sử của chúng tôi cho thấy, một khi mục tiêu đã được xác định rõ
ràng, lực lượng đã được xếp sắp chuẩn xác thì phương châm và phương pháp tiến hành là nhân tố quan trọng bảo đảm
thành công.
Đây
là một đề tài rất thú vị và vô cùng phong phú; trong một bản trình bầy ngắn khó
bề đề cập được toàn diện và kỹ càng. Nhân đây tôi chỉ xin lẩy ra vài ba điều.
Một
là, xuất phát từ văn hoá hoà hiếu của dân tộc Việt Nam, từ khả năng thu phục lòng
người do những mục tiêu chính nghĩa được theo đuổi và từ hoàn cảnh nhiều khi phải
đối phó với nhiều đối thủ cùng một lúc, chúng tôi luôn theo đuổi phương châm “thêm bạn, bớt thù”, “…làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh
hơn hết”[2] Ngay sau khi nước
nhà độc lập, đứng trước mối đe doạ của nhiều thế lực bên ngoài, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: nước Việt Nam sẵn sàng “làm bạn với mọi nước dân chủ và không
gây thù oán với ai”[3].
Nối
tiếp truyền thống ấy, khi bước vào thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã tuyên bố với toàn thế giới rằng,”Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình,
độc lập và phát triển”[4]. Tư tưởng này
đã được chính thức ghi trong Cương lĩnh sửa đổi và bổ sung của Đảng Cộng sản
Việt Nam được thông qua tại Đại hội lần thứ XI họp đầu năm nay: Việt Nam muốn “là
bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp
phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên
thế giới”[5].
Tư
tưởng trên đây là cơ sở cho chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ
quốc tế mà Việt Nam đang thực thi, một chính sách trùng hợp với xu thế phổ biến
hiện nay trên thế giới.
Trong
khuôn khổ chung ấy, với truyền thống “họ hàng xa không bằng láng giêng gần”,
ngay từ những năm tháng đầu tiên sau khi giành được độc lập, Việt Nam đã dành
mối quan tâm hàng đầu cho nhiệm vụ củng cố quan hệ hợp tác với các nước láng
giềng có chung biên giới và các nước trong khu vực Đông Nam Á nói riêng và châu
Á nói chung. Tiếc rằng, do những biến động trong khu vực và trên thế giới,
trong một thời gian dài, các nước trong khu vực bị chia năm xẻ bẩy, thậm chí
hiềm khích, xung đột nhau. May thay, tình trạng ấy đã qua đi từ đầu những năm
90 thế kỷ trước; dưới tác động của xu thế hòa bình, ổn định và hợp tác để phát
triển, các nước trong khu vực lần lượt tập hợp nhau trong ASEAN, tạo nên một tổ
chức khu vực có uy tín cao trên thế giới mà Việt Nam là một thành viên tích
cực. Xuất phát từ lợi ích liên kết khu vực để phát triển, nối tiếp truyền thống
của những năm đầu độc lập, Việt Nam đặt lên hàng đầu nhiệm vụ củng cố sự thông
nhất trong đa dạng giữa các nước thành viên ASEAN, nâng cao vị thế quốc tế của
Hiệp hội, tiến đến hình thành Cộng đồng vào năm 2015.
Lần
lại lịch sử ngoại giao Việt Nam
trong những năm 1945 – 1946 ta còn thấy một hướng khác được quan tâm đặc biệt;
đó là những nỗ lực thiết lập quan hệ với các nước lớn, trước hết là các nước ủy
viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Điều đó cũng dễ hiểu vì muốn
hay không, các nước này luôn đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát
triển của thế giới và ảnh hưởng đáng kể tới tình hình của nước Việt Nam trẻ tuổi.
Ngày nay ngoại giao Việt Nam
vẫn tiếp tục nỗ lực thiết lập và củng cố quan hệ hợp tác với các nước lớn trên
cơ sở tôn trọng lẫn nhau, hợp tác bình đẳng cùng có lợi.
Đương
nhiên điều đó hoàn toàn không có nghĩa là chúng tôi lơi lỏng những nỗ lực không
ngừng tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với mọi quốc gia gần xa, lớn nhỏ
khác, nhất là những nước vốn có quan hệ truyền thống và các nước đang phát
triển cùng cảnh ngộ với Việt Nam.
Nhân
đây tôi muốn nhấn mạnh tính nhân văn
của dân tộc Việt Nam
vốn xa lạ với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Trong thời gian dài từng là nạn nhân của
ách đô hộ tàn bạo, sự xâm lược dã man của nước ngoài, người Việt Nam luôn ghi
nhớ những hy sinh mất mát song không bao giờ nuôi giữ hận thù, luôn phân biệt rạch
ròi giữa những kẻ gây ra đau khổ cho mình và nhân dân các nước, ngay đối với tù
binh cũng sẵn sàng nhường cơm xẻ áo, sau chiến tranh luôn sẵn sàng “khép lại quá
khứ, hướng tới tương lai”.
Hai là,
trong khi tiến hành hoạt động để giành, giữ độc lập, chủ quyền và phát triển
kinh tế - xã hội, ngoại giao Việt Nam luôn giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, tự mình quyết định đường lối,
chủ trương của mình. Điều này cũng dễ hiểu vì chỉ bản thân mỗi nước mới nắm
được tình hình cụ thể, khả năng, lợi ích của mình, mới biết cách đạt được mục
tiêu đề ra. Vả lại nước nào cũng có lợi ích riêng, nuôi dưỡng những tính toán
riêng, xếp sắp quan hệ quốc tế theo lợi ích riêng của mình. Mặt khác, Việt Nam không bao
giờ rơi vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, gây thiệt hại, phiền phức cho nước khác.
Ngay trong chiến tranh ác liệt, Việt Nam đã luôn cố gắng hạn chế phạm vi
chiến tranh, tránh để các nước ủng hộ, giúp đỡ mình rơi vào xung đột quân sự
trực tiếp với các nước khác. Độc lập tự chủ cũng không đồng nghĩa với chủ nghĩa
biệt lập mà chính sách ấy luôn đồng hành với chủ trương đoàn kết quốc tế mà nay
là hội nhập quốc tế.
Ba là,
suốt chiều dài lịch sử nền ngoại giao Việt Nam luôn kiên trì truyền thống “vững chắc về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược”. Nguyên tắc nói ở đây là độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, là mục tiêu xây dựng một nước
Việt Nam “dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, là sự hợp
tác bình đẳng, cùng có lợi giữa các quốc gia; còn phương cách bảo đảm những
nguyên tắc bất di bất dịch ấy thì thiên biến vạn hoá, khi cương khi nhu, khi tiến
khi lui tuỳ theo vấn đề, thời điểm, tương quan lực lượng cụ thể.
Bốn
là, gắn với tư tưởng chỉ đạo nói trên, ngoại giao Việt Nam luôn quán triệt một
phương châm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện trong một bài thơ viết trong chốn
ngục tù khi bị chính quyền Quốc Dân Đảng Trung quốc bắt giam vào đầu những năm
40 thế kỷ trước:
“Phải
nhìn cho rộng, suy cho kỹ,
Kiên
quyết không ngừng thế tiến công,
Lạc
nước, hai xe đành bỏ phí,
Gập
thời một tốt cũng thành công.” [6]
Theo
tinh thần đó ngoại giao Việt Nam luôn nắm
vững, thậm chí chủ động tạo lập thời
cơ, đồng thời chủ động tấn công giành thắng
lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Trong
thời chiến, điều đó thể hiện tại Hội nghị
Giơ-ne-vơ năm 1954 công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của Việt Nam song đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền; Hội nghị Pa-ri
1968 – 1973 khẳng định lại những nguyên tắc cơ bản nói trên, Mỹ rút quân hoàn
toàn khỏi miền Nam Việt Nam, chính quyền Sài gòn tạm thời tồn tại để rồi năm
1975 sụp đổ hoàn toàn, đất nước hoàn toàn thống nhất.
Trong
thời bình, Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở đầu là việc gia nhập
tổ chức khu vực Đông Nam Á ASEAN vào năm 1995, sau đó tiến lên gia nhập các tổ
chức khu vực rộng lớn hơn là ASEM
(1996) và APEC (1998), cuối cùng gia nhập WTO - một tổ chức toàn cầu vào năm
2006.
Xem
như vậy có thể thấy quá khứ và hiện tại, truyền thống và thực tiễn hiện nay của
nền ngoại giao Việt Nam nằm trên cùng một tuyến, tạo dựng nên “trường phái
ngoại giao Việt Nam” mà người đặt nền móng cho nó là Chủ tịch Hồ Chí Minh,
người sáng lập ra Nhà nước Việt Nam độc lập giữa thế kỷ XX, đồng thời cũng là
cha đẻ ra nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Những truyền thống ấy được vận dụng
sáng tạo qua các thời kỳ, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn có ý nghĩa
lịch sử: giành lại và giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền toàn vẹn lãnh
thổ; tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội; nâng
cao uy tín của đất nước ở khu vực và trên thế giới sẽ được tiếp tục phát huy
trong thời kỳ tiếp theo.
[1]
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà nội 2011, t.4 tr.3
[2]
Đảng Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2000,t8,tr.26-27
[3]
Như trên, xuất bản năm
2002, t.5, tr.220
[4]
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI,VII,VIII,IX) Về nhiệm vụ an ninh – quốc
phòng và chính sach đối ngoại. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội – 2005, tr.103
[5]
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội –
2011, tr. 83-84
[6]
Như trên, t.3,tr.287
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét