T
|
ôi làm việc ở Phòng Phiên dịch vào những năm đầu
của thập niên 70, lúc Mỹ đã dùng máy bay B52 ném bom hủy diệt miền Bắc và thủ
đô Hà Nội, cũng là lúc Hội nghị Pa-ri về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam đang
bước vào giai đoạn gay cấn. Có thể do đã được sống và làm việc trong một giai
đoạn lịch sử đau thương nhưng hào hùng ấy của đất nước mà những gì tôi còn nhớ
về thời gian làm phiên dịch lại không phải là chuyện dịch như thế nào cho hay
cho đúng. Những điều làm tôi nhớ nhất lại là những người mà tôi đã dịch cho họ,
những sự việc mà tôi có dịp chứng kiến hoặc kinh qua trong những ngày chiến
tranh khói lửa ác liệt này.
Tôi còn nhớ khi mới về
phòng Phiên dịch, anh Nguyễn Minh Thông là người chuyên dịch tiếng Pháp đã hỏi
tôi:
-
Ai cũng sợ về phòng Phiên dịch sao cô lại vui vẻ nhận lời về đây?
- Em ở “xóm liều” mà
anh.
Tôi trả lời anh rất
nhanh nhảu như thế. Thật ra tôi đi học cũng như về nhận công tác đều do phân
công, vả lại tôi cũng chưa bao giờ có ý lựa chọn thế này thế kia. Thời ấy là
như vậy. Tuy thế vẫn có nhiều câu chuyện hài hước, ví dụ như chuyện con đười
ươi xổng chuồng mà anh Thông đã kể cho cánh trẻ chúng tôi. Câu chuyện thế này:
Có một con đười ươi ở vườn bách thú lúc ấy còn nằm đằng sau Phủ Chủ tịch, không
hiểu sao nó xổng chuồng, chạy thẳng vào Bộ Kế hoạch, bị Bộ này đuổi, nó lại chạy
sang Bộ Ngoại Giao, chạy quanh Bộ Ngoại Giao rồi leo tót lên gác bốn ngồi trước
cửa phòng Phiên dịch, không ai đuổi được nó đi, dùng cách gì để dọa cũng không
sợ. Thế rồi có một anh cán bộ ở phòng Phiên dịch ra ghé vào tai con đười ươi
nói nhỏ mấy câu, không biết nói gì mà nó vút chạy mất, chạy đứt dép, chạy một mạch
về chỗ cũ mà không dám ngoái cổ lại. Mọi người thán phục, vỗ tay hoan hô và hỏi
anh cán bộ nọ đã rỉ tai nó cái gì mà đuổi được nó đi nhanh thế. Anh cười mà rằng:
có gì đâu, tôi chỉ bảo nó là trong này đang họp thông ngôn đấy, mày có vào thì
vào! Câu chuyện vui cho thấy lúc bấy giờ người ta nhìn nhận về nghề phiên dịch
còn khác với bây giờ, coi nó là nghề “thông ngôn ký lục chi chi”, còn nhiều định
kiến với nó. Câu chuyện của anh Thông cũng báo trước cho tôi biết về những khổ ải
và thiệt thòi của những người theo nghề phiên dịch. Tuy vậy, thời gian mấy năm
làm phiên dịch đã mở ra cho tôi rất nhiều cơ hội tiếp xúc, học hỏi và tiến bộ.
Tôi nhớ mãi lời của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch: đứa nào đã qua phòng Phiên dịch
rồi thì vứt vào đâu cũng làm việc tốt.
Người nhận tôi về
phòng Phiên dịch là anh Nguyễn Tư Huyên, trưởng phòng như kể ở trên. Anh em trẻ
chúng tôi rất “thần tượng” anh, tất nhiên là theo cái cách thần tượng của thanh
niên ngày ấy: kính phục, nể trọng. Khi nhớ về anh Huyên, tôi thấy hình như là
trong đầu anh ấy có hai ngăn, một ngăn tiếng Anh, một ngăn tiếng Pháp, cứ thế
mà anh ấy chữa bài cho chúng tôi, chữ nghĩa ở ngăn nào cứ từ ngăn ấy tuôn ra, mạch
lạc, rõ ràng. Những lúc bí chữ tôi thấy anh thường ngồi chống tay nhìn lên trần
nhà, mái tóc bạc phơ hất ra phía sau, trầm tư một lúc thì chữ nghĩa cứ như từ
trên trần rơi xuống. Các anh chị lớn tuổi kể cho chúng tôi nghe rằng anh Huyên
rất giỏi toán, đã có thể trở thành một giáo sư toán tài ba, có thời từng là
Giám đốc Đài phát thanh vậy mà anh đã dứt bỏ môn toán yêu thích và cương vị cao
để về Bộ Ngoại giao làm phiên dịch. Chắc hẳn không phải vì anh yêu cái nghề “thông
ngôn” hơn mà bởi vì anh đã biết rõ cái việc anh lựa chọn, sự nghiệp cứu nước và
thống nhất Tổ quốc mà anh phục vụ trong những thời điểm khó khăn gian khổ. Lúc ấy
đang có Hội nghị Pa-ri về Việt Nam, anh Huyên là người chính phải dịch các tài
liệu phục vụ Hội nghị này, còn chúng tôi đến phòng in để chữa mo-rát. Thời bấy
giờ làm gì có vi tính như bây giờ, cứ chữa một câu, thêm một chữ là phải đánh lại
từ đầu, đến khổ. Chính tấm gương mẫu mực và tận tụy của người Trưởng phòng
Phiên dịch ấy đã động viên lớp trẻ chúng tôi hăng hái gắn bó với nghề.
Trong những ngày đầu
đi dịch, có một lần tôi bị “gẫy cầu”. Đó là lần tôi đi dịch cho đoàn của Thụy
Điển sang giúp Việt Nam về chính sách dân số và sinh đẻ có kế hoạch. Người thuyết
trình nói một hổi rồi ra bảng vẽ các hình minh họa loạn hết cả lên cùng với các
thuật ngữ lạ lẫm. Mới nhìn tôi đã choáng, nguyên tiếng Việt cũng chưa hiểu được
mô tê răng rứa gì thì làm sao dịch cho được. Toàn là những biện pháp tránh
thai, chửa đẻ đúng cách, cơ chế này cơ chế kia… làm tôi chết đứng. May mà có một
bác sĩ đứng ra giải thích giúp cho bởi vì ông là người chuyên môn trong ngành.
Sau lần ấy, tôi thấy người phiên dịch phải biết rất nhiều từ chuyên môn, trong
rất nhiều lĩnh vực. Anh đã đi dịch cho người ta thì người ta coi anh là đương
nhiên phải biết hết, phải dịch được hết.
Đi phiên dịch lúc ấy
không phải chỉ có dịch chữ nghĩa mà nhiều khi còn gánh luôn vai trò người hướng
dẫn. Vào năm 1972 máy bay B52 đã thường xuyên đe dọa Hà Nội, người dân đi sơ
tán gần hết, phố xá vắng tanh, những người ở lại làm việc đều thuộc diện sẵn
sàng chiến đấu. Người ta đào các loại hầm trú ẩn, hầm cá nhân, hầm tập thể ở khắp
nơi. Một lần tôi đi sân bay Nội Bài để đón và dịch cho đoàn ông Xên Mắc Brai do
Ủy ban Điều tra tội ác của Việt Nam mời vào để kiểm tra việc Mỹ thường tuyên bố
là chỉ ném bom các mục tiêu quân sự. Ông Xên Mắc Brai là người Ai-len, sau này
được giải thưởng Nô-ben vì hòa bình, lúc đó đã gần bẩy chục tuổi, lại bị bệnh
tim nên rất yếu nhưng rất hăng hái. Trong đoàn còn có sáu bảy người khác đều là
các nghị sĩ thuộc các nước Na-uy, Phần lan và một số nghị sĩ các nước châu Âu.
Khi đoàn xe chúng tôi vừa về đến gần
cầu Long Biên thì có báo động. Lúc ấy cầu Long Biên đã là một mục tiêu bị máy
bay Mỹ bắn phá dữ dội. Các anh chị tự vệ bảo vệ cầu đội mũ sắt mặc quần áo màu
xanh cầm cờ đỏ chặn xe chúng tôi lại và yêu cầu nhanh chóng đưa khách vào hầm
trú ẩn gần nhất. Thấy xe bất chợt bị chặn lại các vị khách hỏi tôi có chuyện
gì. Tôi bình tĩnh giải thích cho họ biết và đề nghị họ đi theo tôi. Khi nói với
họ là có báo động và máy bay Mỹ đang bỏ bom gần đây, tôi thoáng nhận thấy nét mặt
hốt hoảng của họ, ánh mắt thiếu tin tưởng của những người khách châu Âu to cao
nhìn một cô gái nhỏ bé đang hướng dẫn họ trong một tình huống rất nóng. Tôi
cùng mấy anh cán bộ đón đoàn bình tĩnh đưa các vị khách vào một cái hầm tập thể
có miệng xây gạch cuốn, hầm sâu và dài, bên trên đổ đất dày, người dân trồng sắn
dây hoặc các loại cây rau để ngụy trang. Ở đâu đó đã nghe tiếng bom nổ, tiếng
máy bay phản lực xé tai và tiếng pháo cao xạ đáp trả chát chúa. Đã có đông người
trong hầm nhưng khi thấy có khách nước ngoài thì họ tự dãn ra nhường lối cho
khách chui sâu vào trong. Hầm chật, có một số người tự nguyện đi ra phía ngoài
để nhường chỗ cho khách. Đấy chỉ là những cử chỉ bình thường của người Việt Nam
mình trong thời chiến nhưng đối với khách thì họ ngạc nhiên lắm vì việc làm ấy
trong mắt họ là việc nhường lại cho người khác sự sống và nhận về mình những
nguy hiểm. Sự ngạc nhiên ấy sau này đã trở thành sự cảm phục trong suốt chuyến
công tác của họ. Cũng từ đấy họ không còn nhìn tôi, một cô bé con, với ánh mắt
hoài nghi như lúc đầu nữa mà họ đã dành cho tôi những tình cảm mến mộ, sự tin
tưởng, nhờ thế mà việc thay đổi giờ giấc, lịch trình cũng được cảm thông hơn,
việc dịch cũng được dễ dàng hơn.
Mấy ngày sau khi đoàn
đến Hà Nội thì Mỹ ném bom đánh phá bệnh viện Bạch Mai. Trận ném bom vừa dứt thì
tôi được lệnh đưa đoàn đến chứng kiến. Cả đời tôi sẽ không bao giờ quên cảnh đổ
nát và chết chóc bày ra trước mắt tôi lúc ấy, quần áo, bông băng và cả da thịt
người bay tứ phía, thật thương tâm và rùng rợn. Các vị khách của tôi cũng bàng
hoàng, sững sờ trước một sự thật tàn khốc: máy bay Mỹ ném bom bệnh viện. Không
kìm nén nổi sự tức giận, ông Xên Mắc Brai hét lên: bọn Mỹ thật ngu xuẩn, như thế
này mà gọi là mục tiêu quân sự à! Tôi thấy các ông trong đoàn rớt nước mắt khi
nghe nói còn nhiều người mắc kẹt trong đống đổ nát kia mà chưa cứu được. Chính
lúc ấy tôi cảm nhận được trong họ đang có một chuyển biến quyết liệt. Ông trưởng
đoàn ra lệnh: đi về, về ngay khách sạn làm báo cáo. Hôm ấy tôi đã ngồi lại rất
lâu dịch cho ông một số tư liệu. Bản báo cáo của ông làm hôm ấy đã nói lên những
sự thật mà chính ông nhìn thấy tận mắt, nghe thấy tận tai, đã góp phần làm chuyển
biến dư luận, làm cho dư luận nghiêng hẳn về ủng hộ Việt Nam và lên án Mỹ ném
bom bệnh viện và dân thường.
Trong thời gian làm
phiên dịch, tôi đã vài lần có vinh dự
được dịch cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Đây là những lần gặp gỡ tiếp xúc đã để lại
trong tôi những ấn tượng tốt đẹp nhất, những kỷ niệm không phai mờ và những dấu
ấn trong cả đời công tác ngoại giao cùa tôi. Đáng nhớ nhất là khi dịch cho Thủ
tướng tiếp Đại diện Tổ chức Giải phóng Pa-lét-xtin, vị khách nước ngoài đầu
tiên ngay sau ngày giải phóng miền Nam 30 tháng 4 năm 1975. Là người dịch,
tôi được chứng kiến cuộc tiếp xúc thật là cảm động này. Sau khi chủ khách ôm
hôn nhau thắm thiết, ông Đại diện Pa-lét-xtin nói:
- Chúng tôi xin chúc mừng
sự nghiệp của nhân dân Việt Nam. Không biết sự nghiệp của nhân dân chúng tôi sẽ
còn đến bao giờ.
Nói câu này xong ông Đại
diện Pa-lét-xtin khóc, mọi người cảm động cũng xụt xịt khóc theo. Trong không
khí thắm tình đoàn kết chiến đấu giữa những người anh em ấy, Thủ tướng điềm
tĩnh nói với ông đại diện:
- Ngày ấy sẽ đến, và một
điều kiện rất quan trọng là cần có sự đoàn kết, sức mạnh của cả dân tộc.
Khi dịch những câu
này, tôi hiểu là Thủ tướng muốn nhấn mạnh đến sự chia rẽ trong các lực lượng
Pa-lét-xtin lúc bấy giờ. Ông này sau về làm Phó chỉ huy các lực lượng vũ trang
của Pa-lét-xtin, một thời gian sau thì hy sinh trong chiến đấu.
Lần thứ hai vào năm
1978. Vị khách được Thủ tướng tiếp là ông Brát Pho Mooc-xơ,Tổng Giám đốc Chương
trình Phát triển của Liên Hợp quốc (UNDP), đã từng là Hạ nghị sĩ của Mỹ. Ông
cũng là một nhân vật chống chiến tranh, hầu như là người Mỹ đầu tiên có chức vụ
cao đến thăm Việt Nam lúc này. Tuy vậy, là người Mỹ trong bối cảnh vừa sau chiến
tranh với Việt Nam, ông Mooc-xơ vẫn có một mặc cảm rất lớn, như là có lỗi gì đó
với Việt Nam.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng
đã biết trước điều này. Thủ tướng là người mà trước khi tiếp khách bao giờ cũng
tìm hiểu rất kỹ về người mình tiếp, chuẩn bị kỹ những điều mình sẽ nêu ra và
trình bày thật khúc triết, rõ ràng, hàm xúc. Chính vì thế mà tôi có cảm tưởng
là dịch cho Thủ tướng vừa dễ lại vừa khó. Với cánh phiên dịch chúng tôi thì mỗi
lần dịch cho Thủ tướng là một lần thử thách. Tuy nhiên thái độ trìu mến và cảm
thông của người lãnh đạo ấy luôn làm chúng tôi yên tâm hoàn thành công việc của
mình.
Lần ấy, theo đúng hẹn, tôi đến khách sạn đón
ông Tổng Giám Đốc Mooc-xơ. Chiếc xe “Vôn-ga” màu đen chở chúng tôi vừa đỗ xịch
trước cửa Phủ Chủ tịch, chúng tôi vừa bước ra khỏi xe thì đã thấy Thủ tướng đứng
chờ sẵn ở ngay bậc thang cuối cùng lên Phủ Chủ tịch. Thủ tướng chủ động ôm hôn
ông Mooc-xơ trước sự ngạc nhiên và sửng sốt của vị khách này. Trong suốt buổi
tiếp, chủ khách đã chuyện trò thằng thắn, cởi mở. Sau buổi tiếp, ông Mooc-xơ
nói với tôi:
-
Các bạn có một vị Thủ tướng thật tuyệt vời và đầy ấn tượng. Những ứng xử của Thủ
tướng đã làm tôi thật bất ngờ nhưng cũng đầy thú vị. Khi tôi đến đây, tôi cảm
thấy nước Mỹ nợ Việt Nam nhiều quá, chắc tôi sẽ không thể có được sự đón tiếp nồng
hậu như vậy. Vậy mà khi Thủ tướng ôm hôn tôi thì những mặc cảm ấy đã bị Ông xua
tan. Điều đó đã thúc đẩy tôi phải làm cái gì nhiều nữa cho Việt Nam.
Tôi cũng nhớ mãi lần
cuối cùng tôi dịch với tư cách phiên dịch tại cuộc họp báo của Bộ trưởng Ngoại
giao Nguyễn Cơ Thạch vào năm 1979, sau khi Trung Quốc tấn công Việt Nam ở biên
giới Lạng Sơn. Đây là một cuộc họp báo lịch sử, được tổ chức ở Câu lạc bộ Quốc
tế lúc bấy giờ (nay là Trung tâm hội nghị qốc tế Lê Hồng Phong). Chủ và khách đều
đứng, các nhà báo đứng chật trong hội trưởng lớn. Do tính chất của sự kiện mà
buổi họp báo đông nghịt người. Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch chủ trì họp báo, trực
tiếp nghe bằng tiếng Anh, tôi chỉ phải dịch xuôi. Tuy nhiên tôi còn nhớ có nhà
báo đứng mãi tít phía xa nêu câu hỏi, khó nghe nên Bộ trưởng quay sang hỏi tôi:
họ hỏi cái gì? Tôi thưa: họ hỏi Trung Quốc đã tấn công vào bao xa trong lãnh thổ
Việt Nam. Nhân câu hỏi này, Bộ trưởng đã giải thích rất rõ cho các nhà báo về
thực chất của những sự kiện lúc bấy giờ trong quan hệ Việt-Trung.
Một
thời gian sau thì phòng Phiên dịch giải tản. Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch nói làm
như thế là để các vụ tìm cách nâng cao trình độ ngoại ngữ của cán bộ, tự lo lấy
người dịch. Anh em trong phòng Phiên dịch người thì đi công tác nước ngoài, người
về vụ khu vực, người về vụ đa phương. Tôi được phân về Vụ Tổ chức quốc tế. Tuy
nhiên tôi luôn cảm thấy có một sự tiếp nối rõ ràng, một mối liên hệ mật thiết
giữa những công việc mà tôi đã làm ở phòng Phiên dịch với những công việc mới.
Rõ ràng tôi đã trưởng thành rất nhiều trong những ngày đi dịch, đã quen với việc
tiếp xúc, đã có dịp suy ngẫm về cách ứng xử tinh tế trong giao tiếp. Và nhất là
đã học được rất nhiều về tinh thần công tác tận tụy và đầy trách nhiệm của các
bậc đàn anh đàn chị trong ngành. Có thể nói những trải nghiệm và bài học làm
nghề và làm người trong những năm tháng tại “Gia đình phiên dịch” đã là hành
trang hữu ích cho công việc ngoại giao sau này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét