Thứ Sáu, 16 tháng 3, 2012

KỂ CHUYỆN MYANMAR


Chu Công Phùng
III-  Bốn mươi năm sau độc lập và hai cuộc đảo chính quân sự (1948-1988)

I. MIẾN ĐIỆN DƯỚI THỜI THỦ TƯỚNG U NU  (1948 -1962)
U Nu là Thủ tướng dân sự đầu tiên của Miến Điện sau khi độc lập, ông cũng là tín đồ trung thành của Phật giáo và rất tôn sùng Chủ nghĩa Max. Thủ tướng U Nu đã vận dụng triết lý đạo Phật và triết học Maxit để quản lý chính quyền Nghị viện dân chủ đa đảng và lãnh đạo Liên bang Miến Điện  trong suốt thời gian từ 1948 đến 1962.

Tuy nhiên, Thủ tướng U Nu không phát huy được sức mạnh đoàn kết dân tộc như cố Thủ tướng Aung San; không đủ uy tín để tập hợp các đảng phái trong chính phủ Liên bang. Ngược lại, Thủ tướng U Nu đã thi hành chính sách tôn giáo thiên vị đạo Phật khiến các tôn giáo khác và các dân tộc thiểu số bất mãn; đồng thời thực hiện chính sách phát triển kinh tế kế hoạch, duy ý chí khiến đất nước Miến Điện bị kiệt quệ sau chiến tranh và vốn phức tạp về sắc tộc càng nghèo khổ và phức tạp hơn.
Trong 14 năm cầm quyền, chính phủ của Thủ tướng U Nu phải đối mặt với nhiều vấn đề nan giải.
1. Nội chiến
Từ tháng 3/1948, do đói nghèo sau chiến tranh lại được Đảng cộng sản cờ trắng (Thời kỳ này, Đảng cộng sản Miến Điện phân hóa thành 2 đảng: ĐCS cờ trắng và ĐCS cờ đỏ) tuyên truyền kích động, hàng nghìn nông dân ở miền Nam Miến Điện đã khởi nghĩa vũ trang chống lại chính phủ, cuộc khởi nghĩa kéo theo các cuộc nổi dậy của một số đơn vị quân đội có nhiều binh lính là dân tộc thiểu số.
            Tiếp đó, Liên minh dân tộc Karen đòi thành lập quốc gia Karen riêng bao gồm toàn bộ dải lãnh thổ cực Nam Miến Điện. Yêu sách đó không được chính phủ U Nu chấp nhận, Liên minh dân tộc Karen quyết định sử dụng vũ lực chống lại chính phủ trung ương. Tháng 12 năm 1947, dân tộc Mon cũng thành lập Mặt trận thống nhất Mon, liên kết với Liên minh dân tộc Karen công khai chống lại chính phủ U Nu, đánh chiếm nhiều làng mạc, thị trấn, thành phố ở phía Nam Miến Điện.
            Tháng 9 năm 1948, người Karen và Padaung ở phía Nam các quốc gia Shan cũng nổi dậy chống lại chính phủ Liên bang. Sau nhiều cuộc giao chiến đẫm máu với quân chính phủ, ngày 20/3/1949, người Karen tuyên bố thành lập quốc gia riêng.
            Tại Vùng Rakhine, xung đột xảy ra giữa các tín đồ đạo Phật và tín đồ đạo Ixlam được người Anh ủng hộ. Tháng 8 năm 1948, người Ixlam khởi nghĩa, phong trào phát triển nhanh chóng, đến giữa năm 1949 họ kiểm soát hầu hết miền Bắc Miến Điện.
            Đầu năm 1949 là thời kỳ đầy khó khăn đối với chính phủ U Nu. Giao thông liên lạc giữa chính phủ Liên bang với miền Bắc chỉ có thể thực hiện được bằng máy bay. Chính phủ của Thủ tướng U Nu bất lực trong ổn định tình hình đất nước, nhiều Bộ trưởng xin rút khỏi Nội các. U Nu đưa tướng Ne Win lên làm Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Nội vụ. Mùa hè năm 1949, Ne Win đi Anh và Mỹ xin viện trợ tài chính và vũ khí để trấn áp các lực lượng nổi dậy.
            2. Thâm nhập và phá hoại của tàn quân Quốc dân đảng
Tháng 12 năm 1949, quân giải phóng nhân dân Trung Quốc tiến vào giải phóng tỉnh Vân Nam, tàn quân Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch do Lý Mật cầm đầu gồm 1.600 lính thuộc Quân đoàn 8 và Quân đoàn 26 chạy từ Vân Nam sang Miến Điện kết hợp với Sư đoàn 93 lưu lại phía Bắc Miến Điện từ Chiến tranh thế giới lần 2. Lực lượng vũ trang tại chỗ của chính phủ Miến Điện yêu cầu giải giáp nhưng chúng không chịu. Bị tấn công xua đuổi, chúng trụ lại tại Mong Hxat ở biên giới Miến – Thái, sau đó chuyển về lập căn cứ ở Mông Dương gần biên giới Trung Quốc, tuyển thêm binh lính địa phương nâng quân số lên 12.000 tay súng.
            Lúc này, Mỹ đã công khai ủng hộ Đài Loan chống Trung Quốc. Lực lượng quân đội Quốc dân đảng ở Miến Điện được Mỹ dùng máy bay C.46, C.47 bay từ Đài Loan đến thả dù tiếp tế vũ khí, trang thiết bị quân sự, nhu yếu phẩm. Mục đích của Mỹ và Đài Loan sử dụng lực lượng Quốc dân đảng ở Miến Điện tấn công quấy nhiễu phía Nam Trung Quốc, ngăn cản “làn sóng cộng sản” tràn xuống Đông Nam Á.
            Cuối năm 1951, lực lượng Quốc dân đảng xây dựng xong đường băng sân bay dã chiến ở Mong Xrat, trực tiếp nhận tiếp tế từ Đài Loan, mở rộng phạm vi hoạt động và liên lạc hợp tác với quân khởi nghĩa Karen.
            Tháng 9 năm 1952, Lý Mật ký Hiệp ước giúp đỡ lẫn nhau giữa Quốc dân đảng và Tổ chức quốc phòng Karen, thành lập “Quân đội hợp nhất các dân tộc tự do Đông Nam Á” có sự tham gia của lực lượng Quốc dân đảng.
            Lợi dụng việc quân đội chính phủ Liên bang tập trung đánh lực lượng Đảng cộng sản cờ trắng, Quốc dân đảng mở rộng quyền kiểm soát nửa Đông các quốc gia Shan, thượng nguồn sông Thanlwin, thực hiện kiểm soát, thu thuế, bắt lính ở khu vực này.
            Sự tồn tại và hoạt động quấy phá của tàn quân Quốc dân đảng kéo dài suốt 3 thập kỷ 50, 60, 70, của thế kỷ XX, gây nhiều thiệt hại và khó khăn cho chính phủ Miến Điện. Quân đội Miến Điện nhiều lần tấn công kể cả dùng không quân nhưng không thể tiêu diệt được lực lượng Quốc dân đảng. Chỉ đến khi Mỹ và Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao (1/1/1979), lực lượng Quốc dân đảng mới tan rã dần, một số trở về Đài Loan, một số chuyển thành dân địa phương, thổ phỉ   v.v...
3. Kinh tế xã hội
            Thủ tướng U Nu chủ trương “nền kinh tế thực dân phải được thay thế bằng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, xây dựng trên nguyên tắc người lao động cùng nhau gắng hết sức mình làm việc theo khả năng để biến nguồn lợi thiên nhiên thành của cải tiêu dùng trong đó mỗi người đều được quyền hưởng theo nhu cầu của họ”; Ông cho rằng, "lựa chọn của Miến Điện là kết hợp xây dựng chủ nghĩa xã hội với đẩy mạnh phong trào chấn hưng Phật giáo. Chủ nghĩa xã hội mang lại đầy đủ về vật chất, phục hưng Phật giáo mang lại niềm tin giải thoát. Triết học Macxit không đối lập với tôn giáo, nó bàn về các việc trần thế và tìm cách làm thỏa mãn các nhu cầu vật chất của cuộc sống. Triết học Phật giáo gắn với giải pháp về các vấn đề tình thần”.
            Dựa trên kết quả điều tra về thực trạng kinh tế Miến Điện sau chiến tranh do chính phủ Miến Điện thuê các chuyên gia Mỹ tiến hành năm 1951, tháng 8 năm 1952 chính phủ Liên bang triệu tập Hội nghị kinh tế gồm nhiều đảng phái tham gia, thông qua kế hoạch phát triển kinh tế dài hạn mang tên Pidotha, nghĩa là “đất nước phồn vinh”.
            Kế hoạch Pidotha kéo dài trong 8 năm, chia làm 2 giai đoạn, mỗi giai đoạn 4 năm với tổng số 196 mục tiêu, trong đó có mục tiêu phấn đấu đến năm 1960 nâng tổng sản lượng nông nghiệp lên 30% so với trước chiến tranh, tức là tăng 70% so với năm 1952, GDP tăng 60% so với năm 1952, GDP bình quân đầu người tăng 40% so với trước chiến tranh.    
Trên thực tế, chính sách và các biện pháp phát triển kinh tế kế hoạch của chính phủ U Nu mang nặng tính chủ quan duy ý chí nên đã gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình triển khai. Kế hoạch chia ruộng đất cho nông dân không thành công vì Ủy ban ruộng đất ở nông thôn không hoàn toàn thuộc về nông dân, có cả phú nông và địa chủ tham gia.
Kế hoạch công nghiệp hóa cũng thất bại do thiếu vốn, thiếu cán bộ khoa học kỹ thuật, thiếu điện sản xuất. Năm 1955, sản lượng điện của Miến Điện chỉ bằng 15% trước chiến tranh, nhiều khu mỏ quan trọng nằm trong tầm kiểm soát của các lực lượng nổi dậy.
Năm 1955, chính phủ U Nu quyết định hủy bỏ kế hoạch Pidotha thay vào đó là kế hoạch 4 năm với 85 mục tiêu. Trọng tâm của kế hoạch này chỉ tiếp tục đầu tư vào những dự án then chốt; tập trung hoàn thành các dự án sắp thực hiện xong; nâng cao tầm quan trọng của nông nghiệp, lâm nghiệp và khai thác quặng xuất khẩu; ổn định tài chính; chú trọng đào tạo cán bộ quản lý; cho phép các doanh nghiệp khai mỏ được liên doanh với nước ngoài dưới sự điều hành của người nước ngoài v.v…
Tuy chính sách điểu chỉnh kinh tế của chính phủ U Nu đã thực tế hơn, nhưng vẫn không vực dậy nổi nền kinh tế bị suy thoái toàn diện.
            Tài liệu lưu trữ của Miến Điện cho biết, cuối thập kỷ 50, gần mười năm sau khi giành độc lập, dân số Miến Điện tăng 21% nhưng tổng thu nhập quốc dân chỉ bằng 81% trước chiến tranh. Dự trữ ngân sách trao đổi với nước ngoài giảm từ 210 triệu Kyat xuống còn 92 triệu Kyat. Đến năm 1961, sản lượng lúa gạo của Miến Điện chỉ đạt 93% so với trước chiến tranh, kế hoạch mở rộng diện tích gieo trồng chỉ đạt ¼, chỉ có 31/85 mục tiêu kinh tế của chính phủ được hoàn thành.
            Trong khi chính phủ của Thủ tướng U Nu chưa tìm ra biện pháp khắc phục hậu quả của Kế hoạch Pidotha và Kế hoạch 4 năm, thì từ giữa thập kỷ 50, đất nước Miến Điện lại lâm vào cuộc khủng hoảng chính trị mới.
4. Khủng hoảng chính trị, xã hội
            Thất bại trong các mục tiêu kinh tế xã hội cộng với tình trạng tha hóa nghiêm trọng trong đội ngũ quan chức khiến cho uy tín của chính phủ U Nu giảm sút nhanh chóng.
            Ngày 20/8/1958, Thủ tướng U Nu triệu tập Quốc dân đại hội với sự tham gia của tất cả các đảng phái nhằm mục đích thảo luận và đưa ra một “Hiến chương về nền dân chủ”. Cuộc thảo luận bất thành, các đảng phái yêu cầu họp Quốc hội. Trong hoàn cảnh bế tắc đó, U Nu đã đi một nước cờ táo bạo: tạm trao quyền cho quân đội.
            Ngày 26/9/1958, Thủ tướng U Nu ủy quyền cho tướng Ne Win tạm nắm quyền điều hành chính phủ. Theo thỏa thuận, tướng Ne Win sẽ lập một chính phủ quân sự tạm quyền hoạt động đến tháng 4 năm 1959 với nhiệm vụ khôi phục trật tự xã hội, tạo ra những điều kiện tốt nhất cho cuộc tuyển cử tự do.
            Ngày 28/10/1958, U Nu từ nhiệm, Viện Dân biểu bầu Ne Win làm Thủ tướng. Chính phủ tạm quyền gồm 14 thành viên. Sau khi nhậm chức, Thủ tướng Ne Win mở chiến dịch vây bắt, thanh trừng các lực lượng đối lập. Liên đoàn “Trong sạch” của U Nu đổi tên thành đảng Liên bang.
            Tháng 2 năm 1960, Miến Điện bầu cử Quốc hội, đảng Liên bang thắng cử với 60% phiếu bầu. Ngày 4/4/1960, U Nu tái nhiệm ghế Thủ tướng và kiêm nhiệm 7 ghế Bộ trưởng trong chính phủ mới. Tuy nhiên, do bất đồng quan điểm về đường lối chính trị và xây dựng kinh tế, đảng Liên bang đã chia rẽ thành 2 phe. Thủ tướng U Nu bất lực trong giải quyết bất đồng giữa 2 phe, tại đại hội đảng Liên bang ngày 27/1/1961, U Nu buộc phải từ chức Chủ tịch đảng.
            Ngoài những bế tắc về chính trị, kinh tế, Miến Điện thời kỳ này còn phải đối mặt với những vấn đề gay gắt về tôn giáo và sắc tộc.
            Từ tháng 9 năm 1959, tại Đại hội của Liên đoàn “Trong sạch”, Thủ tướng U Nu cam kết sẽ nâng Phật giáo thành Quốc đạo. Trong chiến dịch vận động tranh cử năm 1960, U Nu lại hứa hẹn điều đó với các cử tri. Khi trở lại nắm quyền, ông bắt tay vào thực hiện cam kết. Ngày 17/7/1961, chính phủ U Nu thông qua dự thảo sửa đổi Hiến pháp, ghi rõ: “Phật giáo là tôn giáo của đa số công dân Liên bang Miến Điện, là tôn giáo quốc gia”. Tiếp đó Quốc hội ban hành “Đạo luật về tôn giáo quốc gia”, quy định cả nước nghỉ làm việc trong những ngày lễ của Phật giáo, Nhà nước tạo điều kiện giảng dạy Phật giáo trong các trường học khắp cả nước, mở các trường tiểu học trong các Tu viện Phật giáo, mở các chương trình chuyên đề về Phật giáo trên các đài phát thanh.”
            Đạo luật này là giọt nước làm tràn ly nước, gây nên cuộc xung đột mới về tôn giáo ở Miến Điện. Cộng đồng Hồi giáo, Hội đồng Baptist Miến Điện, Vật linh giáo và các tôn giáo khác ở các Bang Shan, Kachin… đều tuyên bố không chấp hành Đạo luật của Quốc hội. Tháng 2 năm 1962, “Liên minh các dân tộc thiểu số có tôn giáo riêng” được thành lập để chống lại chính phủ Liên bang.
             Miến Điện có 135 sắc tộc khác nhau. Vấn đề tôn giáo kéo theo vấn đề dân tộc. Chỉ trong một thời gian ngắn, các tộc thiểu số Mon, Rakhine, Rohinga, Chin, Shan… với nhiều tôn giáo khác nhau liên tiếp nổi lên đòi hỏi thành lập quốc gia tôn giáo riêng và tách ra khỏi chính phủ Liên bang.
            Thủ tướng U Nu không đưa ra được giải pháp nào. Tình hình xã hội Miến Điện ngày càng rối ren. Ngày 24/2/1962, Thủ tướng U Nu triệu tập đại diện các đảng phái chính trị và đại diên các dân tộc trao đổi về vấn đề chế độ Liên bang cũng là vấn đề thống nhất của Miến Điện. U Nu kêu gọi các đảng phái cố gắng giải quyết vấn đề với tình thần gia đình. Lời kêu gọi của ông không được các lực lượng đối lập hưởng ứng.
            Lo ngại trước diễn biến ngày càng xấu đi của tình hình đất nước, lực lượng quân đội đứng đầu là tướng Ne Win quyết định ra tay.
            Đêm mồng 1 rạng sáng ngày 2/3/1962 một nhóm tướng lĩnh Miến Điện do Tổng tham mưu trưởng - Đại tướng Ne Win cầm đầu tiến hành cuộc đảo chính quân sự, bắt giữ Thủ tướng U Nu cùng toàn bộ Nội các, các thủ lĩnh đảng cầm quyền, chủ tịch Liên bang Uyn Maung và đại diện các dân tộc đang tham dự thảo luận về thể chế Liên bang.
            9 giờ sáng ngày 2/3/1962, đài phát thanh Miến Điện thông báo, chính quyền Nhà nước Liên bang Miến Điện đã nằm trong tay Hội đồng cách mạng do Đại tướng Ne Win làm Chủ tịch. Ne Win nói: "Tôi xin thông báo với toàn dân rằng, lực lượng vũ trang đã đảm đương trách nhiệm và nhiệm vụ duy trì an ninh trong nước do tình hình tồi tệ tồn tại trong Liên bang."
            Chế độ Dân chủ đại nghị của Miến Điện thời Thủ tướng U Nu kết thúc sau 14 năm tồn tại mà không đạt được kết quả như mục tiêu đề ra ban đầu. Các nhà sử học Miến Điện ghi nhận trong thời kỳ cầm quyền của Thủ tướng U Nu, Miến Điện chỉ có 2 điểm sáng là:
* Năm 1959 -1960, Miến Điện đứng đầu Châu Á về xuất khẩu lương thực, đạt mốc kỷ lục xuất khẩu được 3 triệu tấn gạo. Từ đó về sau Miến Điện chưa bao giờ lập lại kỷ lục này.
* Đất nước Miến Điện đã đóng góp cho thế giới một chính khách xuất chúng, đó là U Thant - Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc.[1]
                                               
II. MIẾN ĐIỆN DƯỚI THỜI THỦ TƯỚNG NE WIN (1962 -1988)
1. Chế độ chính trị mới
Sau cuộc đảo chính thành công, ngày 2/3/1962, Hội đồng cách mạng Miến Điện ban lệnh giải tán Quốc hội, Toà án tối cao và các Hội đồng nhà nước dân tộc Shan, Kachin, Karen, Kaya, Chin. Hiến pháp 1947 tuy không bị bãi bỏ nhưng đã bị vi phạm. Hội đồng cách mạng trở thành cơ quan Lập pháp.
Ngày 15/3/1962, Hội đồng cách mạng chỉ định tướng Ne Win là Nguyên thủ quốc gia, Chủ tịch Hội đồng cách mạng, Thủ tướng kiêm các chức Bộ trưởng Quốc phòng, Tài chính, Tư pháp. Hội đồng cách mạng còn giao cho tướng Ne Win toàn quyền xử lý về Lập pháp, Hành pháp.
Ngày 4/7/1962, Hội đồng cách mạng công bố thành lập Đảng Cương lĩnh xã hội chủ nghĩa Miến Điện (Burma Socialist Programme Party – BSPP). Điều lệ của BSPP khẳng định, Đảng phấn đấu cho các mục tiêu thiết lập nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, lấy “con đường Miến Điện tiến lên chủ nghĩa xã hội” làm cương lĩnh; tập hợp toàn bộ quần chúng công nông cũng như trí thức quan tâm đến lợi ích chung và mưu sinh bằng các nghề không bóc lột.
Ngày 1/1/1974, chính phủ Ne Win công bố Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp 1947, đặt tên nước là “Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Miến Điện”, khẳng định “Đảng Cương lĩnh xã hội chủ nghĩa Miến Điện” là chính đảng duy nhất lãnh đạo quốc gia”. Các nội dung dân chủ của Hiến pháp 1947 đều bị bãi bỏ.
Với chính sách cai trị đó, trên đất nước Miến Điện đã hình thành một hệ thống chính trị hoàn toàn mới, khác hẳn “chế độ dân chủ đại nghị” thời Thủ tướng U Nu, chế độ mới là một sự đồng nhất quyền lực Đảng và Nhà nước. Chính phủ Ne Win đã loại hẳn các đảng phái đối lập, thực hiện quản lý đất nước dựa trên sức mạnh của lực lượng quân đội và cảnh sát.
2. Cương lĩnh phát triển
            Ngày 30/4/1962, Hội đồng cách mạng Miến Điện công bố bản Cương lĩnh "Con đường Miến Điện tiến lên chủ nghĩa xã hội".
            Cương lĩnh định ra những chuẩn mực mới về chủ nghĩa xã hội với mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa kế hoạch hoá. Cương lĩnh quy định “những tư liệu sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp, công nghiệp, phân phối, vận tải, giao thông, thương mại…sẽ được quốc hữu hóa. Tất cả các phương tiện sản xuất phải là sở hữu của Nhà nước, của các Hợp tác xã hay doanh nghiệp tập thể. Mọi hình thức sở hữu phải hoạt động trong khuôn khổ kế hoạch hóa quốc dân xã hội chủ nghĩa và phụ thuộc lẫn nhau”.
            Sau khi công bố Cương lĩnh “Con đường Miến Điện tiến lên chủ nghĩa xã hội”, tháng 1 năm 1963, Hội đồng cách mạng Miến Điện công bố tiếp Văn kiện mang tên “Hệ thống tương quan giữa con người với môi trường” – gọi tắt là “Triết học” với những quan điểm rất gần gũi với Chủ nghĩa Max, coi "lịch sử là một quá trình liên tục diễn ra đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp nảy sinh khi xuất hiện những mâu thuẫn giữa hệ thống sản xuất và tổ chức xã hội đang tồn tại. Con người là động lực thứ nhất của các chuyển biến lịch sử; trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, người lao động là lực lượng quyết định. Kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế kế hoạch phát triển tuân theo các quy luật khách quan…”         
3. Chính sách phát triển kinh tế     
Để thực hiện Cương lĩnh, ngày 19/10/1963, chính phủ Ne Win công bố "Luật quốc hữu hoá". Luật cho phép Chính phủ có quyền quốc hữu hóa bất kỳ xí nghiệp tư nhân nào thông qua bồi thường. Nhà nước độc quyền về thu mua, xuất nhập khẩu. Luật “Quốc hữu hóa” cũng cho phép Chính phủ mua lại các phần sở hữu của người nước ngoài để chuyển toàn bộ doanh nghiệp có vốn nước ngoài sang sở hữu Nhà nước; Ngân hàng nước ngoài và Ngân hàng tư nhân Miến Điện được quốc hữu hóa thành “Ngân hàng nhân dân”, các cửa hiệu của ngoại kiều và tư nhân Miến Điện được kiểm kê và chuyển thành “Cửa hiệu nhân dân”.
“Luật quốc hữu hóa” vừa công bố đã gặp phải sự chống đối quyết liệt của giới chủ tư nhân và doanh nghiệp nước ngoài. Trong khi đó cơ chế hoạt động của hệ thống thương nghiệp quốc doanh thụ động, thiếu nguồn hàng, không đảm nhiệm được chức năng chỉ đạo, điều tiết giá cả. Hậu quả tất yếu là giá cả thị trường tăng vọt.
Trong lĩnh vực công nghiệp, việc quốc hữu hóa ngân hàng, kiểm soát chặt chẽ cung cấp nguyên liệu sản xuất, nộp thuế cao…khiến sản xuất thiếu vốn, nhiều cơ sở sản xuất phải đóng cửa vì thua lỗ. Đối phó với tình trạng này, Nhà nước cấm đóng cửa các cơ sở sản xuất nếu không được phép, khuyến khích công nhân tự điều hành sản xuất ở những xí nghiệp mà giới chủ không chịu điều hành sản xuất.
Ngày 5/4/1962, Chính phủ Ne Win thông qua Sắc luật xóa bỏ chế độ lĩnh canh thu tô. Năm 1963 lại ban hành Luật cấm dùng bất kỳ tư liệu sản xuất nông nghiệp nào để thế nợ. Thay vào quan hệ địa chủ – tá điền, Nhà nước với tư cách người sở hữu tối cao về đất đai, trao quyền sử dụng đất cho nông dân, cho nông dân vay vốn sản xuất với lãi suất thấp, Nhà nước thu lợi tức dưới hình thức thuế nghĩa vụ. Tuy nhiên, chính sách khuyến khích này không đem lại hiệu quả vì số tiền nông dân được vay chỉ đủ 10% chi phí canh tác, Do vậy, năng suất nông nghiệp không tăng mà gánh nặng ngân sách của Nhà nước càng tăng lên.
 Nhà nước còn chia cây trồng nông nghiệp thành 2 loại. Loại “trong kế hoạch” gồm 67 giống cây chỉ gieo trồng ở đất “trong kế hoạch”, không được phép gieo trồng các cây nông nghiệp khác trong thời vụ chính. Sự áp đặt máy móc này không phù hợp thực tế, vì vậy từ năm 1965, số cây trồng “trong kế hoạch” giảm dần, cuối cùng chỉ còn 19 loại cây trồng thông dụng nhất.
Nhà nước thực hiện độc quyền thu mua nông sản với giá thấp hơn thị trường tự do. Bù lại, Nhà nước bán sản phẩm đầu vào cho nông dân như xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu với giá thấp. Nhưng nông dân không hứng thú vì chi phí đầu vào cao hơn giá thóc gạo.
Ngày 28/5/1970, Chính phủ Ne Win ban hành “Luật về Hợp tác xã”, quyết định thành lập các loại hình Hợp tác xã từ sản xuất nông nghiệp đến tiêu thụ, tín dụng, công nghiệp, đánh cá, chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp…Từ năm 1971, cả nước hình thành 12.563 Hợp tác xã nông nghiệp với 3,8 triệu xã viên; 27 Hợp tác xã công nghiệp với 16.800 xã viên; 271 Hợp tác xã dịch vụ với 78.263 xã viên.
            Cương lĩnh tiến lên chủ nghĩa xã hội và chính sách duy ý chí về phát triển kinh tế áp dụng trong một quốc gia còn lạc hậu như Miến Điện không những không đem lại kết quả mong muốn mà còn gây ra nhiều hậu quả tai hại. Đến đầu thập kỷ 70, Miến Điện xuất hiện khủng hoảng kinh tế xã hội: diện tích canh tác nông nghiệp giảm 400.000 acre so với trước chiến tranh do đê điều chống ngập mặn hư hỏng không được sửa chữa và thiếu các công trình thủy lợi; nông dân không hứng thú sản xuất nông nghiệp do chính sách giá thu mua nông sản không hợp lý; xuất khẩu gạo (chiếm 60% tổng giá trị xuất khẩu) bị giảm mạnh Dự trữ ngoại tệ sụt giảm, nguồn thuế của Nhà nước cũng giảm do kim ngạch thương mại giảm. Ngân sách quốc gia thâm hụt nặng nề dẫn tới lạm phát. Năm 1975 – 1976, lạm phát của Miến Điện lên tới 35,5%. Nhà nước phải phân phối lương thực và hàng hoá tiêu dùng, đời sống nhân dân cả nước vô cùng khó khăn.
            Tháng 3 năm 1977, đảng “Cương lĩnh xã hội chủ nghĩa Miến Điện” họp Đại hội lần 3, đề ra một chính sách mới cởi mở hơn về kinh tế đối nội và kinh tế đối ngoại, tìm các nguồn tài chính mới từ Ngân hàng thế giới (WB) để khắc phục khó khăn kinh tế. WB đồng ý cho Miến Điện vay tiền kèm theo các điều kiện chặt chẽ để bảo đảm khả năng phát triển và trả nợ.
            Trước đó, Liên Hợp Quốc đã xếp Miến Điện vào nhóm 30 nước kém phát triển nhất và coi viện trợ cho Miến Điện là rất cần thiết. Từ đó, Miến Điện nhận được khá nhiều viện trợ, vay, tặng từ các Tổ chức Quốc tế như IDA, ADB, UNDP, UNICEF và từ các nước Nhật, Đức, Na Uy, Mỹ, Anh, Úc, Hà Lan, Pháp, Đan Mạch, Italia... Từ năm 1974 – 1989, Miến Điện nhận được tất cả 4,5 tỉ USD viện trợ trong đó 3,1 tỉ USD từ các nước Phương Tây và 1,4 tỉ USD từ các Tổ chức quốc tế.
            Nhờ có các nguồn tài chính từ bên ngoài, cộng với chính sách phát triển nông nghiệp, công nghiệp cởi mở hơn trước, Ngân hàng Nhà nước hoạt động năng động hơn  v.v...., từ năm 1977, kinh tế quốc dân Miến Điện đã có dấu hiệu phục hồi, GDP tăng 1,5%. Đến năm 1980 – 1981, tăng trưởng kinh tế đạt 8,3%, trong đó nông nghiệp đạt 9%, công nghiệp đạt 5,8%.
            Tuy nhiên, chỉ sau 5 năm khởi sắc, từ năm 1983 trở đi kinh tế quốc dân Miến Điện bắt đầu đi xuống với tốc độ mỗi năm một tăng. Nguyên nhân chủ yếu do chính phủ Ne Win phạm phải 2 sai lầm lớn về chính sách kinh tế:
            Sai lầm thứ nhất là, chính sách giá cả và phân phối các sản phẩm nông nghiệp.
            Chính phủ Liên bang thực hiện chính sách cứng nhắc trong thu mua thóc gạo. Suốt 8 năm từ 1981 tới 1987, chính phủ giữ nguyên giá thu mua thóc của nông dân trong khi giá thóc gạo trên thị trường tự do luôn biến động theo chiều hướng tăng. Giá xuất khẩu gạo của chính phủ luôn cao gấp 5 – 6 lần giá thu mua từ nông dân. Nhà nước sử dụng khoản tiền chênh lệch lớn này để bao cấp cho khu vực thành thị, công chức Nhà nước và lực lượng vũ trang.
            Chính sách bất hợp lý đó khiển cả nông dân và Nhà nước đều gặp khó khăn. Nông dân bất bình, phản ứng dưới nhiều hình thức như không tích cực sản xuất, không chịu bán đủ thóc quy định, đầu cơ tích trữ, bán giấu cho tư thương để xuất khẩu lậu sang Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh. Về phía chính phủ, không những không thu mua được đủ lương thực như kế hoạch dự định, phải bù thêm kinh phí bao cấp cho các thành phần kinh tế khác, mà còn khiến đội ngũ cán bộ thu mua, xuất khẩu bị tha hóa, tham ô, biến chất. Nạn nhân cuối cùng chính là khối nhân viên dân sự, quân sự ăn lương của Nhà nước vì giảm sút thu mua lương thực tất yếu dẫn đến giảm bao cấp lương thực cho họ, giá lương thực tăng vọt không sao kiểm soát được. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 1988, giá gạo tăng gấp 4 lần. Dân tình chao đảo.
            Sai lầm thứ hai là, phân phối không hợp lý tiền viện trợ và vay của nước ngoài.
Nguồn vốn vay mượn của bên ngoài được chính phủ phân phối đầu tư chủ yếu  cho các cơ sở công nghiệp, cơ sở hạ tầng lâu sinh lợi nhuận. Các xí nghiệp sản xuất cần vốn thì không được đáp ứng đầy đủ, không phát huy hết công suất máy móc. Năm 1988 -1989, các xí nghiệp quốc doanh thiếu vốn chỉ hoạt động được 30% công suất. Nhà nước tiếp tục gánh đỡ thâm hụt tài chính cho các doanh nghiệp quốc doanh. Từ năm 1984 -1988, 1/3 số thâm hụt đó được Nhà nước tài trợ bằng nguồn vốn vay bên ngoài, 2/3 còn lại là từ các Ngân hàng trong nước. Sức ép lạm phát càng tăng.
Hai sai lầm lớn trên trong chính sách phát triển kinh tế của chính phủ Ne Win dẫn đến hậu quả là mục tiêu kế hoạch 4 năm lần thứ tư (1982 – 1986) không hoàn thành, kinh tế suy thoái nặng nề, các chỉ số kinh tế chủ yếu đều tăng trưởng âm: GDP: - 0,1%; Nông nghiệp: - 0,3%; Công nghiệp: - 0,2%, chỉ có dịch vụ tăng trưởng 0,2%.
Hậu quả tiếp theo là nợ nước ngoài tăng từ 20,4% GDP năm 1978 lên tới 45,2% GDP vào năm 1986. Khủng hoảng kinh tế xã hội khiến chính phủ Miến Điện không thể trả được nợ và lãi suất của nước ngoài ngày càng tăng theo thời gian. Để được hưởng quy chế tha nợ, tháng 12 năm 1987 chính phủ của Thủ tướng Ne Win buộc phải đề nghị và được Liên Hợp Quốc chấp thuận, xếp Miến Điện vào nhóm nước kém phát triển nhất thế giới. Điều này làm tổn thương nghiêm trọng tới quốc thể và tình thần tự tôn dân tộc của nhân dân Miến Điện.
4. Nội chiến
            Suốt 26 năm tồn tại, chính phủ Ne Win liên tục phải đối phó với sự nổi dậy có vũ trang của các quốc gia dân tộc Kachin, Shan, Karen, Mon, Liên minh các dân tộc thiểu số, lực lượng tàn quân Quốc dân đảng và lực lượng chống đối do cựu Thủ tướng U Nu cầm đầu [2].
            Các cuộc đàm phán giữa Hội đồng cách mạng với Đảng cộng sản cờ đỏ, Đảng cộng sản cờ trắng, Quân đội độc lập Kachin, Tổ chức quốc phòng Karen, Quân đội giải phóng quốc gia Shan… đều không đạt được kết quả mong muốn. Quân đội chính phủ tiếp tục tấn công truy quét các lực lượng khởi nghĩa. Các lực lượng khởi nghĩa bị tổn thất nhiều, tìm cách liên kết với nhau và liên lạc tìm sự trợ giúp của lực lượng quân đội Quốc dân đảng.
            Tháng 5 năm 1975, các đảng phái nhiều sắc tộc thiểu số liên kết với nhau thành lập "Mặt trân dân chủ dân tộc" chống lại chính phủ Liên bang, đòi thành lập các quốc gia dân tộc có đường biên giới rõ ràng và có chủ quyền về kinh tế, chính trị, văn hóa. "Mặt trận dân chủ dân tộc" có lực lượng vũ trang gồm 25.000 quân. Suốt nhiều năm sau, xung đột vũ trang giữa "Mặt trận dân chủ dân tộc" với quân đội chính phủ không ngừng xảy ra, tuy quân đội chính phủ chiếm ưu thế về lực lượng và vũ khí nhưng không thể tiêu diệt được các lực lượng nổi dậy. Nội chiến dai dẳng kéo dài hàng chục năm sau.
Cuộc nội chiến khốc liệt nhất là cuộc chiến giữa quân đội chính phủ Liên bang với lực lượng vũ trang của Đảng cộng sản Miến Điện được bên ngoài hậu thuẫn có căn cứ ở các quốc gia Nam Shan vùng Đông Bắc Miến Điện giáp biên giới Trung Quốc.
Tháng 11 năm 1985, lực lượng vũ trang của Đảng cộng sản Miến Điện từng đánh bại quân đội chính phủ Liên bang tại khu vực Hxi Hxi Wan bang Shan và bao vây phong tỏa cánh quân chi viện của chính phủ. Hội đồng cách mạng Miến Điện phải huy động 2 sư đoàn bộ binh sử dụng cả máy bay ném bom Pilatus và tên lửa 4 nòng 122 mm của Liên Xô mới đẩy lui được quân đội Đảng cộng sản Miến Điện.
 Đầu năm 1986, quân đội chính phủ thừa thắng tiến quân đánh chiếm Kyubok – vùng lãnh thổ rộng lớn do quân đội Đảng cộng sản Miến Điện kiểm soát. Tiếp đó quân đội chính phủ mở mặt trận thứ hai, vượt sông Thalwin tấn công vào tổng hành dinh Panghxang của quân đội cộng sản Miến Điện gần biên giới Trung Quốc. Chiến sự kéo dài đến giữa năm 1986 thì quân đội chính phủ tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn lực lượng quân đội Đảng cộng sản Miến Điện[3]. Tàn quân và một số lãnh tụ Đảng cộng sản Miến Điện phải chạy trốn sống lưu vong ở nước ngoài, chấm dứt gần 50 năm tồn tại hoạt động chính trị và vũ trang Đảng cộng sản Miến Điện. 
5. "Sự kiện 8/8/1988" và sự sụp đổ của chính phủ Ne Win
Ngay từ giữa năm 1974, công nhân ở Thủ đô Yangon và các thành phố lớn bất mãn với cuộc sống đói nghèo đã nổi lên biểu tình đòi chính phủ Liên bang bù giá gạo, tăng lương, bãi bỏ luật cấm biểu tình. Chính phủ Ne Win ra lệnh cho quân đội đàn áp các cuộc biểu tình khiến sinh hoạt công cộng ở Thủ đô Yangon bị ngưng trệ suốt 5 tháng. Tháng 12 năm 1974, ở Yangon lại nổ ra xung đột giữa sinh viên với quân đội, cảnh sát xung quanh việc tổ chức tang lễ của U Thant – nguyên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Giới trí thức và sinh viên Miến Điện muốn xây lăng U Thant tại khuôn viên Đại học Tổng hợp Yangon trong khi Chính phủ quyết định mai táng U Thant tại một nghĩa địa bình thường ở ngoại ô Yangon. Hậu quả là hơn 1.000 sinh viên bị bắt, 65 người bị kết án tù.
Năm 1975, sinh viên các trường đại học ở Yangon lại xuống đường biểu tình chống chính phủ, đốt phá hình nộm Ne Win. Hậu quả là 203 sinh viên bị kết án tù từ 4 - 9 năm, Chính phủ ra lệnh đóng cửa trường Đại học Tổng hợp Yangon và Đại học Tổng hợp Mandalay. Năm 1977, Chính phủ chuyển một số trường đại học về các Bang, Vùng xa các thành phố lớn nhằm hạn chế sinh viên tụ tập biểu tình.
Đầu năm 1988, trước thực tế khủng hoảng kinh tế xã hội, nội chiến kéo dài, quan chức tham nhũng, lòng tự tôn dân tộc bị tổn thương sau khi biết Chính phủ cầu xin Liên Hợp Quốc “tha nợ”…, từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1988 sinh viên các trường Đại học ở Yangon liên tục xuống đường biểu tình chống chính phủ Liên bang. Phong trào lan rộng ra các thành phố khác như Mandalay, Bago, Toongi, Mague, Molamayin, Akyab…Đáp lại, chính phủ Ne Win sử dụng biện pháp cứng rắn, huy động cảnh sát thẳng tay trấn áp, bắt bớ, khiến nhiều sinh viên và cảnh sát thiệt mạng. Chính phủ phải ra lệnh đóng cửa các trường Đại học và giới nghiêm ở Thủ đô Yangon.
Bất lực về an ninh chính trị trong nước và khó khăn kinh tế khiến Đảng cương lĩnh xã hội chủ nghĩa rạn nứt ở cấp cao. Ngày 23/7/1988 Đảng cương lĩnh xã hội chủ nghĩa phải tiến hành đại hội bất thường, Chủ tịch đảng Ne Win tuyên bố từ bỏ chính trường, rút về tuyến sau với lý do sức khỏe. Quyền điều hành Chính phủ được giao cho Phó Chủ tịch Hội đồng cách mạng Xein Luyn với cương vị mới là Chủ tịch Đảng Cương lĩnh xã hội chủ nghĩa kiêm Thủ tướng. Ngay sau khi nắm quyền, Thủ tướng Xein Luyn ra lệnh bắt giam các nhân vật chống đối và công bố thiết quân luật vào ngày 3/8/1988.
Ngày 8/8/1988, nhân dân Thủ đô Yangon xuống đường biểu tình với quy mô lớn. Các thành phố lớn khác cũng hưởng ứng theo. Chính phủ Xein Luyn tung quân đội vào cuộc. Ngày 10 tháng 8, quân đội nổ súng vào đoàn biểu tình, máu đổ ở nhiều nơi, hàng nghìn người chết, bị thương và bị bắt giam.
Ngày 12/8/1988, Thủ tướng Xein Luyn từ chức, tướng Maung Maung lên thay, bãi bỏ thiết quân luật, rút binh lính khỏi các đường phố. Nhưng phong trào biểu tình của quần chúng vẫn tiếp diễn với sự tham gia của mọi thành phần xã hội. Cuối tháng 8 năm 1988, xảy ra cuộc nổi dậy ở nhà tù Insein, nhiều tù nhân trốn thoát.
Các tổ chức chính trị mới lần lượt ra đời. Ngày 28/8/1988 ra đời “Liên hiệp sinh viên toàn Miến Điện”. Ngày 29/8/1988, cựu Thủ tướng U Nu thành lập “Liên minh vì dân chủ và hòa bình”
Tháng 4 năm 1988, Aung San Suu Kyi 43 tuổi – con gái út cố Thủ tướng Aung San từ Luân Đôn trở về Miến Điện thăm mẹ ốm. Tại Yangon, Aung San Suu Kyi trực tiếp chứng kiến "sự kiện 8888" và quyết định ở lại trong nước cùng nhân dân Miến Điện đấu tranh chống lại chính quyền quân sự Miến Điện.[4]
Ngày 27/8/1988, Aung San Suu Kyi tham gia thành lập“Liên minh quốc gia đấu tranh vì dân chủ” (NLD) do Aung Gyi (thiếu tướng thời U Nu) làm Chủ tịch; Tin U (cựu Bộ trưởng Quốc phòng thời U Nu) làm Phó chủ tịch, Aung San Suu Kyi làm Tổng thư ký, để đối thoại trực tiếp với chính quyền quân sự, đòi bầu cử tự do để thành lập một chính phủ dân cử hợp hiến, hợp pháp. Ý tưởng này của NLD được các nước Phương Tây khuyến khích và được nhiều người cùng thế hệ với tướng Aung San ủng hộ.
Đầu tháng 9 năm 1988 phong trào biểu tình chống đối của sinh viên và nhân dân  lan rộng ra 50 thành phố lớn thu hút sự ủng hộ của nhiều quan chức trong chính phủ và đảng cầm quyền. Các lực lượng chống đối yêu cầu chính phủ từ nhiệm để tuyển cử tự do bầu chính phủ mới. Cựu Thủ tướng U Nu cũng lập một chính phủ lâm thời gồm 26 thành viên để sẵn sàng tranh cử.
Ngày 10/9/1988, đảng Cương lĩnh xã hội chủ nghĩa tuyên bố tán thành bầu cử đa đảng. Tướng Maung Maung tuyên bố sẽ cố gắng tổ chức bầu cử trong thời gian sớm nhất và cho biết các lãnh tụ Đảng Cương lĩnh xã hội chủ nghĩa sẽ không ra ứng cử. Ngày 14/9/1988, nhân dân Yangon biểu tình lớn đòi Chính phủ quân sự từ chức. Tướng Maung Maung ra lệnh cho các công chức trở về làm việc và tuyên bố khai trừ đảng tịch  những đảng viên tiếp tục tham gia biểu tình.
Giữa lúc tình hình đang căng thẳng, hỗn loạn và phức tạp, ngày 18/9/1988, Bộ trưởng Quốc phòng - Đại tướng Saw Maung cùng các tướng lĩnh thân cận tiến hành cuộc đảo chính quân sự lật đổ chính quyền của Đảng Cương lĩnh xã hội chủ nghĩa Miến Điện sau 26 năm trị vì, thành lập Hội đồng khôi phục trật tự và pháp luật quốc gia (SLORC) gồm 19 thành viên do tướng Saw Maung làm Chủ tịch. Hội đồng nhà nước và Quốc hội cùng các Hội đồng địa phương bị giải tán.
Các nhà sử học Miến Điện ghi nhận, 26 năm tồn tại của chính phủ quân sự do Thủ tướng Ne Win đứng đầu là thời kỳ kinh tế xã hội Miến Điện kém phát triển nhất kể từ sau khi giành được độc lập. Trong thời kỳ này, Miến Điện chỉ có một điểm sáng duy nhất trong lĩnh vực thể thao cũng là niềm tự hào của nhân dân Miến Điện, đó là: 5 lần vô địch bóng đá Đông Nam Á (1965,1967,1969,1971,1973), 2 lần vô địch bóng đá Châu Á (1966, 1970) và 1 Huy chương vàng Cử tạ cùng Cúp Fair Play bóng đá tại Thế vận hội 1972.
III. MIẾN ĐIỆN DƯỚI THỜI THỦ TƯỚNG SAW MAUNG (1988 – 1992)
1. Khôi phục trật tự
Sau đảo chính, Đại tướng Saw Maung được Hội đồng khôi phục trật tự và pháp luật quốc gia bầu làm Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Ngoại giao.
Ngày 23/9/1988, Hội đồng khôi phục trật tự và pháp luật quốc gia tuyên bố đổi tên nước “Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Miến Điện” thành “Liên bang Miến Điện”. Hội đồng khôi phục trật tự và luật pháp quốc gia ra thông cáo nêu rõ các mục tiêu của Chính phủ mới:
- Lập lại an ninh trật tự, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông liên lạc, giảm bớt khó khăn về lương thực, quần áo, nhà cửa của nhân dân, giúp đỡ các Hợp tác xã và tư nhân.
- Sau khi hoàn thành các mục tiêu trên, tiến hành Tổng tuyển cử đa đảng.
- Các đảng được phép thành lập để chuẩn bị cho Tổng tuyển cử.
Thủ tướng Saw Maung hứa sẽ tổ chức tuyển cử để quân đội trao quyền cho đảng nào thắng cử; đồng thời cảnh cáo các phe chống đối chớ nên đưa ra yêu sách mới, chớ nên làm cho tình hỉnh căng thẳng. Nhiều sinh viên các trường đại học bị thất học đã rời bỏ các thành phố tới các vùng biên giới tham gia vào các lực lượng khởi nghĩa, một số chạy sang Thái Lan tham gia các hoạt động chống lại chính phủ.
Tháng 5 năm 1989, Hội đồng khôi phục trật tự và luật pháp quốc gia quyết định đổi quốc hiệu Miến Điện (Burma) thành Myanmar với lý do không nên dùng tên do thực dân Anh đặt ra mà dùng tên gốc bản xứ. Tên nước chính thức được gọi là “Liên bang Myanmar”. Ngày 18/6/1989, chính phủ Liên bang công bố Quốc ca mới. Từ tháng 6 đến tháng 10 năm 1989, các trường Đại học được mở cửa trở lại, các Hội sinh viên được phép hoạt động nhưng không được mang màu sắc chính trị.
Ngày 26/9/1988, Hội đồng khôi phục trật tự và luật pháp quốc gia công bố quy định về đăng ký thành lập các đảng phái chính trị để tham gia Tổng tuyển cử. Tổng cộng có 174 đảng lớn nhỏ được đăng ký thành lập.
2. Cuộc Tổng tuyển cử tháng 5 năm 1990
Ngày 30/5/1989, Hội đồng khôi phục trật tự và luật pháp quốc gia công bố Luật bầu cử đa đảng, thành lập Ủy ban bầu cử. Thời điểm bầu cử được ấn định vào ngày 27/5/1990. Ngày 1/6/1989, Ủy ban bầu cử thông báo Chính phủ quân sự sẽ nắm quyền cho tới khi nào thông qua xong Hiến pháp mới và lập Chính phủ mới.
Trong các lực lượng tham gia tranh cử thì Liên minh quốc gia vì dân chủ (NLD) là lực lượng mạnh nhất. Những bài phát biểu của Aung San Suu Kyi ngày càng đối đầu  với chính quyền Saw Maung. Biết rõ điều này, chính quyền Saw Maung đã ra tay trước. Ngày 19/7/1989, Aung San Suu Kyi tổ chức ngày giỗ cha 42 năm – tướng Aung San – và cùng NLD lên kế hoạch tuyên truyền vận động tranh cử thì bị chính quyền bắt giữ quản thúc tại gia. Chính phủ buộc tội Aung San Suu Kyi "gây nguy hiểm cho thống nhất dân tộc". Chủ tịch NLD Tin U cũng bị bắt kết án 3 năm tù giam, hai lãnh tụ chủ chốt của NLD đều mất quyền ứng cử. Một loạt thủ lĩnh chính trị khác ở Yangon trong đó có cựu thủ tướng U Nu cũng bị quản thúc tại gia từ ngày 29/12/1989.
Ngày 27/5/1990, Myanmar tiến hành cuộc bầu cử Quốc hội với hơn 90 đảng chính trị đủ tư cách tham gia. Đây là lần đầu tiên cuộc bầu cử tự do tại Myanmar được tổ chức sau 30 năm kể từ năm 1960, số ứng cử viên gồm 2.392 người, tranh cử 491 ghế Quốc hội. Mặc dù Aung San Suu Kyi và các lãnh đạo chủ chốt đảng NLD bị bác đơn ứng cử, nhưng đảng NLD cũng đưa được nhiều người ra ứng cử.
Ngày 29/5/1990, Ủy ban bầu cử thông báo kết quả. Đảng Liên minh dân tộc vì dân chủ của Aung San Suu Kyi giành chiến thắng với 392/491 tổng số ghế Quốc hội, chiếm 79,8%..
3. Căng thẳng sau bầu cử    
Tuy thất bại trong bầu cử, Hội đồng khôi phục trật tự và luật pháp quốc gia kiên quyết không chuyển giao quyền lực cho Quốc hội mới, cho rằng, Hiến pháp 1947 đã lạc hậu, là di sản của thời kỳ Thực dân, được soạn ra trước khi Myanmar giành độc lập. Quốc hội được bầu chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là soạn thảo Hiến pháp mới và quân đội sẽ tiếp tục nắm quyền điều hành đất nước cho đến khi có một chính phủ được lập ra phù hợp với Hiến pháp mới. Theo quan điểm của chính phủ, khi dự thảo Hiến pháp cần phải tham khảo ý kiến của 135 sắc tộc trong cả nước và khi cần thì tổ chức trưng cầu dân ý. Quốc dân đại hội sẽ được triệu tập nhằm định ra những nguyên tắc chỉ đạo Quốc hội soạn thảo Hiến pháp mới.
Ngày 30/8/1990, 21 đảng đối lập họp và ra tuyên bố tán thành lập trưởng của đảng NLD, yêu cầu trả tự do cho Aung San Suu Kyi, Tin U và mở rộng quyền tự do dân chủ. Thủ tướng Saw Maung tuyên bố sẽ thả Aung San Suu Kyi nếu bà thôi hoạt động chính trị; đồng thời ra lệnh bắt giam 5 lãnh đạo của NLD với tội danh tiết lộ bí mật quốc gia cho nước ngoài. Aung San Suu Kyi tiếp tục bị quản thúc tại gia ở Thủ đô Yangon.
Ngày 20/12/1990, Thủ tướng Saw Maung ký lệnh giải tán đảng NLD của Aung San Suu Kyi đồng thời ban lệnh giới nghiêm, bắt giam tất cả những ai chống đối. Trước tình hình này, Liên Hợp Quốc, Mỹ và các nước Phương Tây thân Mỹ đã thực hiện lệnh cấm vận, trừng phạt kinh tế đối với Myanmar. Lệnh cấm vận, trừng phạt kinh tế này đã gây ra nhiều khó khăn cho Myanmar suốt hơn 20 năm sau.
Đầu năm 1992, khi đã kiểm soát được tình hình, chính phủ của Thủ tướng Saw Maung bắt đầu nới lỏng kiểm soát. Ngày 23/4/1992, Hội đồng khôi phục trật tự và luật pháp quốc gia thông báo Đại tướng Saw Maung nghỉ hưu vì lý do sức khỏe. Cùng ngày, SLORC thông báo Bộ trưởng quốc phòng - Đại tướng Than Shwe - người thứ 2 của SLORC - giữ  chức Chủ tịch Hội đồng khôi phục trật tự và luật pháp quốc gia.
CCP




[1]  Năm 1961, U Thant - đại biểu thường trực của Miến Điện tại Liên Hợp Quốc cũng là cựu Thư ký của Thủ tướng Aung San được bầu làm Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. U Thant là người đầu tiên không xuất thân từ phương Tây và cũng không lãnh đạo bất kỳ một tổ chức quốc tế nào cho tới thời điểm được bầu giữ chức vụ Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Ông giữ chức vụ này từ 1961 – 1971. Ông mất tại New York năm 1974. Trong số những người Miến Điện làm việc tại Liên Hợp Quốc với U Thant có bà Aung San Suu Kyi – con gái cố Thủ tướng Aung San – sau này trở thành một nhân vật chính trị đặc biệt trong chính trường Miến Điện.
[2] Năm 1967, U Nu được trả tự do, được mời tham gia Hội đồng cố vấn cho chính phủ. Tháng 4/1969, U Nu trốn sang Ấn Độ, sau đó sang Thái Lan thành lập Đảng Dân chủ nghị viện,  lập Mặt trận giải phóng dân tộc hợp nhất, tiến hành hoạt động vũ trang chống phá chính phủ Ne Win. Năm 1973, U Nu không được Thái Lan  hoan nghênh, định xin cư trú ở Ấn Độ nhưng bị từ chối, phải lưu vong sang Mỹ. Năm 1980, U Nu được ân xá trở về nước lập Liên minh vì dân chủ và hòa bình tiếp tục chống đối chính phủ Ne Win.
[3] Để ghi nhớ sự kiện này, chính phủ Myanmar cho xây dựng tại thị xã Kokang, Bang Shan giáp biên giới Vân Nam – Trung Quốc một nhà bảo tàng  trưng bày chiến tích của quân đội Myanmar trong cuộc chiếu đấu chống ma túy và Đảng cộng sản Miến Điện, trong có sa bàn chiến dịch tiêu diệt căn cứ cuối cùng của quân đội Đảng cộng sản Miến Điện
[4] Aung San Suu Kyi tốt nghiệp đại học Luật tại Anh, từng làm việc tại Phái đoàn đại diện Miến Điện tại Liên Hợp Quốc. Aung San Suu Kyi lấy chồng là học giả người Anh - Tiến sĩ Micheal Avis, họ có hai con trai.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét