Thứ Bảy, 3 tháng 3, 2012

CHAI NƯỚC MẮM VÀ ÔNG ĐẠI SỨ

Nguyễn Thị Ngọc Hải, Tuổi trẻ, xuân Nhâm Thìn

Vì sao cô trôi dạt đến tận Chile để trở thành Việt kiều duy nhất ngày đó? Để rồi chứng kiến cuộc chia tay sứ quán Việt Nam và ông đại sứ Vũ Hắc Bồng rút về nước sau cuộc đảo chính năm 1973 với cái chết của tổng thống Allende nổi tiếng trong lịch sử…

“Tôi quê Nam Định. Bắc kỳ chín nút. Ra đời vào mùa thu năm đói Ất Dậu, 1945, ngay sau lễ Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh nên tôi có cái tên mang dấu ấn ấy”. Bà Ngô Thị Độc Lập – vợ của bác sĩ Claudio Schuftan, lãnh sự danh dự của Chilê đang sống và làm việc tại Tp. HCM vẫn nhớ rõ những năm tháng ấy…”.
Theo cha mẹ di cư trên chiếc tàu há mồm từ cảng Hải Phòng, vào Đà Nẵng rồi di chuyển theo suốt chiều dài của đất nước, Hải Phòng, Đà Nẵng, Hội An, Huế, Saigon. Vào Sài Gòn, học trường nữ trung học Trưng Vương, sau lên Blao học trường Nông Lâm Súc. Thi đậu học bổng Lãnh đạo của Mỹ (Leadership scholarship), đi học cùng khóa với Nguyễn Thái Bình. Mối tình đầu "Em yêu thầy" đầy sóng gió, cô đã sống dở chết dở phải tới mấy năm sau mới dịu vết thương lòng và số phận đưa cô tới người thanh niên người Chile, gốc Đức. Họ gặp nhau trong một khoá hội thảo sinh viên quốc tế. Ở Việt Nam, cha mẹ cô nghe tin, phản ứng quyết liệt cuộc hôn nhân dị chủng, cho đó là sự điếm nhục gia phong của một dòng họ có gia phả theo nho học. Vì thế gia đình cắt đứt, không thư từ. Claudio tốt, gia đình chồng yêu thương, nhưng Độc Lập rơi vào cuộc khủng hoảng tinh thần, luôn cảm thấy mình là đứa con bất hiếu. Con cái chưa có. Cô đơn xứ người, thương nhớ quê nhà, đau xót vì gia đình. Claudio thì bận rộn với những cuộc tranh đấu của tuổi trẻ cho phong trào cánh tả, và bận rộn đi trực bệnh viện… Một lần trong tâm trạng không có gì để bám víu ấy, cô bước đi trên chiếc cầu bắc ngang con sông Mapoche vừa mới tan băng cuồn cuộn chảy qua thủ đô Santiago. . Đang định để mình rơi xuống dòng nước siết, thì có ai đó kéo cô lại. “Hãy cẩn thận! Năm nào cũng có người ngã xuống sông!”. Giọng một người đàn ông ngoại quốc. Lạ hơn nữa, ông ta hỏi cô có phải người Việt Nam không. Cô ngạc nhiên hết sức, vì dưới con mắt của người xứ này, tất cả người châu Á đều là China. Thì ra ông ấy đã từng đến Việt Nam làm chuyên gia. Hai tiếng "Việt Nam" lúc đó khiến cô bừng tỉnh. Nó thiêng liêng vang lên nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương. Còn phải trở về. Chưa tròn nghĩa vụ. Không thể chết bờ chết bụi thế này. Cô vắn tắt nói với ông hoàn cảnh của mình. Ông cho biết là có đại sứ quán Việt Nam ở Santiago. Nhưng là sứ quán của Cộng sản.
Những ý nghĩ thôi thúc. Phải tìm người đồng hương, để được nói ngôn ngữ mẹ đẻ và được nếm lại mùi nước mắm. Claudio tìm được địa chỉ và số phôn của sứ quán. Đó đã là năm 1973, khi cô xúc động run tay quay số điện thoại.
Giọng Bắc chay của một người đàn ông ở bên kia đầu dây đã làm tôi xúc động. Sau này tôi mới biết đó là anh Lê Đức Căng, bí thư thứ nhất của sứ quán. Sau Chile, anh đã làm Đại sứ trong hai nhiệm kỳ ở Cuba trước khi nghỉ hưu.
Những câu hỏi rất nguyên tắc của anh đã khiến tôi cảm thấy bị thương tổn. Tôi đã mong mỏi một sự nhiệt tình nào đó để đáp ứng cho nỗi khao khát của tôi. Nhưng không, thái độ của anh đã không đáp ứng được điều đó. Cuối cùng, anh hứa sẽ liên lạc với tôi một ngày rất gần rồi cúp máy.
Tôi tức tối, dằn mạnh chiếc máy điện thoại xuống, như thể nó là thủ phạm đã dám làm phật ý tôi vậy. Claudio cũng có mặt lúc đó, tuy nhiên anh không hiểu cuộc đối thoại bằng tiếng Việt, tôi giải thích cho anh là tôi có cảm tưởng như là vừa trải qua một cuộc điều tra về lý lịch. Claudio bảo tôi cứ yên trí, thế nào Sứ quán cũng liên lạc và tôi sẽ có rất nhiều cơ hội gặp gỡ với người đồng hương.
Tối hôm đó tôi không ngủ được. Liệu mình có quá vội vàng và hồ hởi không? Liệu sự liên hệ này có đem đến điều đáng tiếc nào không? Tự nhiên đang yên lành sao lại đi rước lo vào mình thế này? Tôi không hiểu biết một tí gì về chính trị cả, không hiểu các “ông ấy” có nghi ngờ mình không? “Người ta” là Cộng sản chứ đâu phải người thường, mà các ông Cộng sản thì đã nổi tiếng là kinh khủng khiếp lắm! Nhưng bây giờ có ân hận thì cũng đã muộn rồi!
Và điện thoại reo. Tuy ngắn gọn nhưng giọng nói của người bên kia đầu giây có vẻ thiện cảm hơn (sau này biết đó là bí thư thứ ba Vũ Chí Công) cho biết cô sẽ được mời tới dự kỷ niệm quốc khánh 2-9 và đích thân ông đại sứ sẽ tiếp cô… Thế là lại chờ đợi, lại băn khoăn, thấp thỏm chờ đến ngày hẹn.
Claudio đã ngạc nhiên khi thấy vợ đem ra là ủi chiếc áo dài kỷ vật. Rồi hai vợ chồng nắm tay nhau, hồi hộp đứng chở ở cổng sứ quán. Anh Toàn, bí thư thứ hai của sứ quán đón họ vào một gian phòng trang trí đơn giản với những đồ thủ công Việt Nam. Một lá cờ đỏ sao vàng và tấm hình lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Anh Toàn pha trà Thái nguyên mời chúng tôi. Thái độ thân thiện của anh đã giúp tôi mạnh dạn hơn. Tôi hỏi thăm anh về "ngoài đó", anh vui vẻ cho tôi biết một số khía cạnh của đời sống miền Bắc và những nỗi khó khăn của đồng bào trong thời chiến tranh.
Lúc đó, đối với tôi Việt Cộng phải là những con người bí mật và nguy hiểm, nhưng trái lại, anh Toàn chả có vẻ gì đáng sợ đối với tôi cả.
Hình ảnh một quan chức cao cấp đầu tiên của miền Bắc mà tôi đã được tiếp xúc là người đàn ông khoảng 50 tuổi, người tầm thước, nước da hơi sạm, răng hơi hô, trán cao, hơi hói, tươi cười bước về phía chúng tôi. Ông ăn mặc giản dị, quần tây màu xám, áo sơmi trắng ngắn tay. Giọng Bắc, nhưng không phải Hà Nội…
Bà Độc Lập nhớ lại: “Đó là đại sứ Vũ Hắc Bồng, lúc đó ông ở tuổi cha tôi và cũng hao hao với cha tôi về vóc dáng và cái trán hói nên tôi đã có thiện cảm ngay.
Đặc biệt nụ cười cởi mở của ông đã tạo được niềm tin về sự chân thành cho người tiếp xúc với ông dù chỉ mới là lần đầu tiên.
Trước khi gặp ông, Tôi chưa bao giờ có cơ hội gặp một người Cộng sản hoặc tiếp xúc với giới Ngoại giao. Tôi cứ tưởng Cộng sản phải là những con người kinh khủng khiếp, và những nhà ngoại giao thì phải là những người khách xáo và kiêu căng. Còn các ngài Đại sứ phải là những người có thế lực, quyền ngang với các vị vua chúa, vì Đại sứ là đại diện cho cả một quốc gia.
Tôi cứ tưởng Cộng sản thì phải lãnh đạm, kinh khủng, thế nào kia... Sau khi tiếp xúc với sứ quán, tôi đã bỏ được các thành kiến trên.
Cạn tách trà, ông đưa tay mời vào bàn tiệc ở phòng bên cạnh sáng đèn. Mùi thức ăn Việt Nam, tiêu ớt, hành, tỏi và nước mắm! … Tôi được xếp ngồi phía tay trái ông đại sứ, Claudio phía bên kia, hai chỗ ngồi danh dự. Các anh chị khác thì cùng ngồi kín cả chiếc bàn dài. Tôi xúc động luống cuống đến nỗi đánh rơi cả đũa. Nem rán, thịt gà kho gừng, thịt bò xào, canh cá, ối giời ôi sao mà ngon thế! Lại có cả rượu chanh, rượu cà phê sản xuất ở Hà Nội… Khi rời sứ quán, đại sứ Bồng tặng chúng tôi một chai quấn trong giấy báo, như cách ta thường gói rượu quý, tuyệt vời làm sao, đó là chai nước mắm mơ ước. Trước đây khi rời California sang Chile, tôi có đem theo một chai nước mắm nhỏ, chỉ ngửi thôi mà cũng cạn hết rồi. Được chai nước mắm này của ông đại sứ, tôi không dám phí phạm đem ra nấu ăn, chỉ lâu lâu chấm đầu tăm nếm cho đỡ thèm và chỉ ngửi cho đỡ nhớ mùi vị quê hương…
Ngồi ở nhà thuỷ tạ tĩnh lặng bên bờ ao trong khuôn viên riêng biệt của Lãnh sứ quán Chile ở Sài Gòn hôm nay, tức là gần 40 năm sau, Ngô Thị Độc Lập ôn lại kỷ niệm của đời mình:
Tôi đã đến với những người đồng hương đó để tìm một điểm tựa, tạm thời giúp tôi thoát khỏi cơn khủng hoảng. Đáng lẽ ra tôi phải ngừng ngay sự giao tiếp với sứ quán Việt Nam, phải dè dặt với những con người Cộng sản. Nhưng kỳ lạ thay, tôi lại thấy thân thiết với tất cả mọi người: anh Thu đầu bếp, anh Lê Đức Căng thư ký thứ nhất, anh Vũ Chí Công thư ký thứ hai, chị Nguyễn Thị Hồ – người đàn bà duy nhất ở sứ quán - vợ anh Thìn tùy viên báo chí, thuộc Thông tấn xã Việt Nam thường trú ở Chile - hai vợ chồng chị đã được đặc ân cùng đi công tác ở một nơi. Và đặc biệt ông đại sứ, người đã quan tâm đến tôi như một người cha đối với con gái mình. Ông đã giao cho chị Hồ việc an ủi và động viên tôi mỗi khi tôi gọi phôn than thở về những khó khăn trong cuộc sống. Tất cả đã cho tôi một tình cảm thân thương, khiến tôi có cảm tưởng mình là con em của một đại gia đình.
Bà Độc Lập kể lại những ngày bão táp của cuộc đảo chính đẫm máu ngày 11 tháng 9 năm 1973 ở Chile:
“Tôi đến ở chơi nhà bà bạn học cùng lớp tiếng Tây ban nha chiều hôm trước thì sáng sớm hôm sau cuộc đảo chính của phe Pinochet lật đổ tổng thống Allende diễn ra. Tôi rất lo sợ, không hiểu chuyện gì đang xẩy ra. Lo cho Claudio và lo cho tất cả mọi người ở sứ quán. Tin tức thì toàn phát bằng tiếng Tây Ban Nha mà tôi nghe chưa thạo. Mãi hai hôm sau Claudio mới đến đón được. Dù thiết quân luật nhưng chúng tôi vẫn quyết định sẽ phải ghé qua sứ quán Việt Nam để biết rõ tình hình an nguy của mọi người”.
Claudio với bộ áo bác sĩ đứng gợi chuyện với đám lính gác. Lúc đó lính đã đến bao vây sứ quán. Độc Lập nhỏ bé, nhanh nhẹn lỉnh ngay qua cổng gác vào trong sân. Thấy vợ chồng cô, đại sứ Bồng giục phải về nhà ngay vì rất nguy hiểm…
Sứ quán Việt Nam được lệnh rời khỏi Santiago ngay sau khi Pinochet lên nắm quyền, đặt Chile vào một chế độ phát xít đẫm máu. Chị Hồ gọi điện thoại bằng tiếng Anh, báo tin đại sứ Bồng nhắn cô đến. Ông muốn cô nhận một ít đồ dùng và kỷ vật của sứ quán. Cô đã không biết rằng trong đời vị đại sứ này đã từng trải qua cảnh chia ly, “chia của” đau đớn tương tự. Đó là khi ông ở phái đoàn Quân đội nhân dân trong Ban thi hành hiệp định đình chiến Nam bộ. Kết thúc 300 ngày chuẩn bị tập kết, rời Phụng Hiệp, Cần Thơ, chia tay đồng bào miền Nam chưa biết bao giờ gặp lại. Ngày đó cũng dỡ nhà, mời người lại chia cho họ những “tài sản” kỷ vật nghèo nàn của phái đoàn. Ông không bao giờ ngờ lại có một ngày công việc đã đem ông đến tận Chile Nam Mỹ xa xôi, để khi ra đi, ông phải từ biệt người đồng bào duy nhất ở lại xứ người trong cảnh đảo chính hỗn loạn, tương lai không biết ra sao.
Bà Độc Lập còn nhớ rõ: “Khi tôi đến nơi thì gần trưa. Sứ quán đang đóng đồ chuẩn bị về nước. Tôi oà lên khóc. Chú Bồng, chị Hồ, anh Toàn, anh Công không ai bảo ai, nhưng người nào cũng đều giữ một vài món để dành cho một người, mà hoá ra người đó lại là tôi. Thế là một mình tôi đã được hưởng trọn gia tài, nào đồ trang trí, nào đồ ăn thức đựng, v.v...
Bà nói: Chiếc đĩa sơn mài vẽ cảnh quê hương được “chia” ngày ấy, tôi vẫn còn giữ đến bây giờ. Trong mấy chục năm trời nó luôn luôn chiếm một vị trí quan trọng trong phòng khách. Mới đây chúng tôi đã đóng gói gửi nó đi Mỹ làm quà mừng nhà mới cho cậu con trai duy nhất sinh năm 1975 của vợ chồng tôi.
Ngày hôm mọi người lên xe ra sân bay. Tuy chú Bồng đã căn dặn là không được đến nữa nhưng tôi không thể không đến để tiễn đưa. Cứ nghĩ rằng có thể đó là lần cuối cùng trong đời còn nhìn thấy nhau thì lòng tôi như thắt lại. Khi chúng tôi đến nơi thì mọi người đã lục tục lên xe, thấy chúng tôi, tất cả đều ngạc nhiên vội chạy đến. Những cái nắm tay xiết chặt, những lời dặn dò rưng rưng nước mắt, những vòng tay ôm vội vã để rồi rời xa... Nhiều năm sau, khi gặp lại Chú Bồng bảo hình ảnh Độc Lập nhỏ bé đứng nép vào Claudio đưa tay lên gạt nước mắt lúc xe chuyển bánh khiến mọi người đều ngậm ngùi súc động trong suốt quãng đường dài ra sân bay.
Sau buổi sáng chia tay đẫm nước mắt đó ở Chile, mười lăm năm bẵng hẳn tin tức. Khi Độc Lập trở về Việt Nam làm thủ tục đón cha mẹ đi đoàn tụ gia đình, cô đã gặp lại đại sứ Vũ Hắc Bồng. Hồi ông làm đại sứ ở Angola, Claudio nghe tin tìm đến thì ông đã đi rồi… Trong lúc lo giấy tờ cho cha mẹ, cô ra Hà Nội và tình cờ gặp lại nhà báo Nguyễn Khắc Thìn và biết tin buồn vợ anh, chị Hồ, đã mất vì tai nạn giao thông… Anh Thìn hỏi: “Em đã gặp chú Bồng chưa? Ông kẹ ở Sài Gòn đấy! Bọn anh đi công tác nước ngoài đều được ông giao cho việc tìm vợ chồng em”.
Bay về Sài Gòn, cô muốn đi gặp đại sứ Bồng, lúc đó là Giám đốc Sở ngoại vụ. Cha mẹ cô ngăn: Không nên đâu con ơi. Người ta làm lớn, ở đó công an nhiều lắm. Mày Việt kiều, người ta không tiếp đâu. Cô bảo: Cứ thử đi.
Cô đến Sở ngoại vụ, đưa danh thiếp với cái tên Aviva Schuftan cho tiếp tân, cái tên mới đổi sau này. Ông Bồng không biết là ai, vẫn cho mời lên.
Khi tôi bước vào, ông đang ngồi sau chiếc bàn làm việc rất lớn, trên để đầy những tập hồ sơ . Vội đứng lên. ông đưa hai tay ra nắm chặt lấy tay tôi, lắc mạnh: Ôi con Độc Lập! Hai vợ chồng mày ở đâu bao lâu nay? Đã có con cái gì chưa? Dạo này có da có thịt rồi đó con, nhưng da thì vẫn còn đen . Cháu ông Vũ Hắc Bồng thì phải đen chứ ạ! Mày thì lúc nào cũng liến thoắng. Thế Claudio bây giờ đang làm gì, ở đâu?…”.
Đó là hai cuộc gặp gỡ của bà Ngô Thị Độc Lập, một ở Chile, một ở Việt Nam sau ngày giải phóng. Cuộc đời của bà là một mảnh cuộc sống của người Việt Nam ở nước ngoài rồi trở về gắn bó với đất nước qua những công tác từ thiện. Cuộc đời của bà cũng có nhiều đoạn chứng kiến những thời khắc đặc biệt của đại sứ Bồng…

Nguyễn Thị Ngọc Hải

(Trích trong tác phẩm Chuyện đời đại sứ sắp xuất bản)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét