Giáo dục ở Myanmar
1. Chất lượng giáo dục
Hệ thống giáo dục của Myanmar dựa
trên hệ thống giáo dục của Vương quốc Anh áp dụng tại Myanmar gần một thế kỷ.
Tiếng Anh được dạy như ngôn ngữ thứ hai từ cấp mẫu giáo.
Năm 1948 sau khi giành lại độc lập,
chính phủ Myanmar rất coi trọng phát triển ngành giáo dục và tin tưởng kết
quả đào tạo của ngành giáo dục sẽ góp phần đưa sớm Myanmar trở
thành con rồng Châu Á như quốc gia này đã đề ra. Cuối thập kỷ 50 của thế
kỷ XX, chất lượng đào tạo của các trường đại học Myanmar thuộc nhóm
đầu thế giới.[1]
Tuy nhiên, cuộc đảo chính quân
sự năm 1962 đã làm đứt gãy sự phát triển của ngành giáo dục Myanmar. Tất
cả các trường học bị quốc hữu hóa khiến chất lượng giáo dục đi xuống. Năm
1965, Luật Giáo dục Đại học mới được ban hành, tiếng Anh không còn được dùng
làm phương tiện giảng dạy tại các trường đại học mà thay bằng tiếng Miến Điện,
khiến trình độ tiếng Anh của sinh viên Myanmar bị giảm sút. Mãi đến năm 1982
tiếng Anh mới lại được dùng làm phương tiện giảng dạy tại các trường học.
Nhưng chỉ 6 năm sau, “sự kiện
8888” khiến tất cả các trường đại học tại Myanmar lại bị đóng cửa trong 2 năm.
Đến năm 1990, chính phủ quân sự áp dụng hệ thống giáo dục mới và quyết định
các trường đại học, cao đẳng khai giảng vào thời gian khác nhau, nhưng
bị sinh viên phản đối. Những cuộc biểu tình liên tục của sinh viên khiến
các trường đại học và cao đẳng tiếp tục bị đóng cửa trong 3 năm từ 1996-1998.
Năm 1999, chính phủ Myanmar cho
phép các trường đại học, cao đẳng mở cửa trở lại, nhưng phân tán các trường đại
học về các Bang, Vùng khác nhau. Hệ thống giáo dục có một số điều chỉnh mới,
chất lượng giáo dục đại học, cao đẳng được cải thiện Năm 2005, Bộ Ngoại giao Myanmar chính thức
thông báo chất lượng giáo dục của 156 trường đại học và cao đẳng Myanmar đã đạt
chuẩn quốc tế.
Tuy nhiên, do kinh tế kém phát
triển, ngân sách giáo dục hạn chế [2],
cộng với chính trị xã hội không ổn định suốt thời gian dài; các trường
đại học cách nhau quá xa, cơ sở hạ tầng thiếu thốn, thiếu thông tin
kết nối với quốc tế …khiến chất lượng giáo dục của Myanmar đã tụt hậu
nhiều so với chuẩn quốc tế. Ngoài ra, chất lượng đào tạo của sinh viên
Myanmar bị giảm sút còn do họ bị hạn chế trong việc nói, viết và trình bày
quan điểm một cách tự do.
Vì vậy, theo đánh giá của
Văn phòng UNDP của Liên Hợp Quốc tại Yangon, chất lượng giáo dục của
Myanmar hiện tại tuy chưa đạt chuẩn quốc tế, nhưng vẫn được xếp vào
loại trung bình ở Châu Á, đặc biệt trình độ tiếng Anh của sinh viên
Myanmar sau khi tốt nghiệp đại học tốt hơn nhiều so với sinh viên nhiều
nước Châu Á khác.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục
Myanmar, tỷ lệ biết chữ năm 2010 của cả nước là 94,95%. Trong khi đó theo thống
kê của CIA Factbook Hoa Kỳ thì tỷ lệ biết chữ của Myanmar năm 2006 là 89.9%
(nam: 93,9%, nữ: 86,4%).
2. Mục tiêu giáo dục
+ Ở bậc phổ thông
- Tăng tỷ lệ nhập học đối với trẻ
đến tuổi tới trường.
- Cập nhật và nâng cao chương
trình giảng dạy ở cả ba cấp trong hệ thống giáo dục cơ bản.
- Bỏ hệ thống kiểm tra, đánh giá
cũ khuyến khích học thuộc lòng, thay thế bằng quy trình đánh giá mới hợp lý
hơn, khuyến khích khả năng tư duy, kĩ năng giải quyết vấn đề.
- Tăng cường thành lập các phòng
học đa phương tiện có sử dụng máy chiếu, thiết bị điện tử và sử dụng máy tính để
hỗ trợ giảng dạy.
- Nâng cao chất lượng cơ sở đào tạo
giáo viên và đội ngũ giáo viên.
+ Ở bậc đại học:
- Tăng cường chất lượng giáo dục.
- Giới thiệu và ứng dụng công
nghệ thông tin vào trường học.
- Nghiên cứu chuyên sâu.
- Phát triển một xã hội học tập
suốt đời và tăng cường liên kết đào tạo quốc tế.
3. Luật giáo dục
Luật Giáo dục mới của Myanmar được
ban hành năm 1973, quy định mọi công dân đều có quyền được đi học và được giáo
dục cơ bản như đã quy định trong Hiến pháp và các văn bản luật của Nhà nước.
Luật Trẻ em Myanmar có hiệu lực từ
tháng 7/1993. Trong đó, chương IV ghi rõ:
(a) Mọi trẻ em đều có cơ hội được
tới trường; có quyền được hưởng nền giáo dục cơ bản (cấp tiểu học) miễn phí tại
các trường công lập.
(b) Bộ Giáo dục phải thực hiện một
hệ thống giáo dục cơ bản miễn phí và bắt buộc; các biện pháp cần thiết để duy
trì trẻ tới trường thường xuyên và giảm tỷ lệ bỏ học; thu xếp cho các trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn có cơ hội được đi học tại các trường công lập.
Về nguyên tắc, giáo dục bắt buộc
bao gồm 5 năm đầu tiên trong hệ thống giáo dục cơ bản (từ lớp mẫu giáo đến lớp
4).
4. Ngân sách giáo dục
Ở Myanmar, tất cả các trường học
được Nhà nước cấp ngân sách và chịu sự quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, tỷ trọng
chi cho ngành giáo dục đào tạo trong GDP khá thấp, dưới 1,5% GDP.
Riêng ở các vùng sâu, vùng xa,
biên giới, hải đảo chưa có trường học công lập, chính quyền địa phương tại những
khu vực này đã huy động nguồn lực tư nhân để xây dựng trường học với cam kết dần
dần sẽ chuyển thành trường công lập. Các trường học loại này phải trực
thuộc một trường công lập và được gọi là “trường trực thuộc”. Khoảng
90% nguồn thu của trường trực thuộc dùng để trả lương cho giáo viên. Năm học
1987 - 1988, có khoảng 5.000 giáo viên dạy trong hệ thống các trường học trực
thuộc. Trường học không phải mất tiền thuê đất do chủ đất hỗ trợ.
Tại các
trường công lập, Hội phụ huynh học sinh đóng góp tài chính cho trường. Quỹ của
phụ huynh học sinh đóng góp nhằm để xây dựng phòng học mới; mua mới, sửa chữa
trang thiết bị dạy học; phần thưởng cho học sinh xuất sắc, các hoạt động ngoại
khóa như thể thao, nghệ thuật, thi viết tiểu luận v.v...
Theo thống
kê của Phòng Nghiên cứu giáo dục Myanmar, trung bình hàng năm Hội phụ huynh
các địa phương trong cả nước đã cung cấp 21,2% chi phí xây dựng phòng học, 63%
chi phí mua thiết bị, 63,4% chi phí sửa chữa, nâng cấp và 87,7% các chi phí
phát sinh khác. Gần đây, tổ chức Hội phụ huynh ngày càng lớn mạnh và đóng góp
tích cực vào các hoạt động giáo dục. Khối trường trung học phổ thông nhận được
nhiều nhất đóng góp của Hội phụ huynh.
Trên cở
sở Hội phụ huynh, chính phủ Myanmar cũng thành lập Ban Quản trị nhằm phối hợp
các các lực lượng khác trong xã hội để xây dựng nguồn quỹ giáo dục. Quỹ này sẽ
giúp phần giải quyết những yêu cầu bức xúc của nền giáo dục hiện nay như xây dựng
cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học và phúc lợi xã hội. Trong năm 2000, những
lực lượng trên đã đóng góp 3,182 tỷ kyat và 170.000 USD đầu tư vào cơ sở hạ tầng
và mua sắm các trang thiết bị dạy học hiện đại.
5. Hệ thống giáo dục
+ Giáo dục
cấp nhà trẻ
Cấp nhà trẻ dành cho trẻ từ 3 - 5
tuổi, đây là cấp học không bắt buộc với mục đích hình thành tư duy cho trẻ, tạo
những thói quen, tập tính ngay trong giai đoạn này. Cấp học nhà trẻ được chính
thức đưa vào chương trình từ năm học 1998 - 1999.
+ Giáo dục phổ thông
Giáo dục cơ bản kéo dài 11 năm và
được chia thành 3 cấp: tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông.
a) Cấp tiểu học
Cấp tiểu học bắt đầu từ 5 tuổi đến hết 10 tuổi. Cấp tiểu học gồm có 5
trình độ, từ mẫu giáo đến lớp 4 và được chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn một gồm
lớp mẫu giáo, lớp 1 và lớp 2. Giai đoạn hai gồm lớp 3 và lớp 4. Đây là cấp học
phổ cập, bắt buộc đối với mọi học sinh. Để kết thúc bậc tiểu học tiếp tục lên cấp
trung học cơ sở, học sinh phải trải qua một kỳ thi với các môn cơ bản – kỳ thi lớp
4.
b) Cấp trung học cơ sở
Gồm 4 trình độ, từ lớp 5 đến lớp
8, bắt đầu từ 11 tuổi đến 14 tuổi. Hết
trung học cơ sở, học sinh phải trải qua kỳ thi tốt nghiệp trung học cơ sở – kỳ
thi lớp 8.
c) Cấp trung học phổ thông
Trung học phổ thông gồm 2 trình độ
lớp 9 và lớp 10, bắt đầu từ năm 15 đến 16 tuổi. Cuối lớp 10 học sinh phải trải
qua kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông – kỳ thi lớp 10. Căn cứ vào kết quả
thi tuyển mà học sinh sẽ được nhận bằng tốt nghiệp loại A hay B. Những học sinh
đạt được bằng tốt nghiệp loại A sẽ được tiếp tục học lên các trường đại học và
cao đẳng.
Ở cấp tiểu học và trung học tại
Myanmar đều không có sự đào thải, chỉ khi đến kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ
thông hoặc kỳ thi tuyển sinh vào các trường đại học và cao đẳng mới có sự phân
loại và đào thải.
Cấp trung học phổ thông phân
thành 2 Ban: Tự nhiên và Xã hội. Học sinh cả 2 Ban đều phải học tiếng Myanmar,
tiếng Anh và Toán học. Ngoài ra, Ban tự nhiên học thêm 3 môn: Hóa học, Vật lý
và Sinh học, Ban xã hội sẽ học thêm Địa lý, Lịch sử và Kinh tế. Sự phân Ban này
sẽ quyết định môn thi của học sinh trong kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ
thông và kỳ thi tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng sau này.
Sau khi tốt nghiệp trung học phổ
thông, học sinh sẽ tham gia kỳ thi tuyển sinh vào các trường đại học do Hội đồng
tuyển sinh Myanmar tổ chức hàng năm vào giữa tháng 3. Những học sinh các trường
quốc tế hoặc dân lập không được thi vào các trường cao đẳng và đại học công lập.
Những học sinh đạt điểm suất sắc nhất (500/600 điểm) sẽ được vào học tại một
trong những trường đại học Y khoa hoặc đại học Dược Myanmar.
Một năm học tại Myanmar bao gồm
36 tuần và được chia làm hai học kỳ.
+ Giáo dục sau phổ phông
a) Trung cấp, dạy nghề
Những học sinh không đủ điều kiện
vào các trường đại học và cao đẳng thì có thể theo học chương trình dạy nghề do
Sở Giáo dục kỹ thuật và dạy nghề phụ trách.
Hiện Myanmar có khoảng 10 trường
trung học chuyên nghiệp và dạy nghề do Sở Giáo dục kỹ thuật và dạy nghề quản
lý, bao gồm các khóa học: ngắn, trung và dài hạn với các ngành nghề như nuồi trồng
thủy hải sản, nghề cá; nghề thủ công truyền thống; nghề sửa chữa cơ khí, đồ gia
dụng v.v
Ngoài ra, còn có những chương
trình vừa học vừa làm như lớp học nghề buổi tối, lớp học kỹ thuật công nghiệp
(ETEC). Những lớp học này dành cho cán bộ, công nhân viên các cơ quan nhà nước
muốn bổ túc, nâng cao tay nghề. Ngoài ra, các trường dạy nghề còn có các khóa học
ngắn hạn (từ 1-3 tháng) và trung hạn trên 3 tháng giành cho những thanh thiếu
niên ở khu vực nông thôn, miền núi có hoàn cảnh khó khăn.
b) Đại học
Theo số liệu của Bộ Giáo
dục Myanmar, năm 2006 cả nước có 156 trường đại học và cao đẳng với
tổng số 42.800 sinh viên và 11.252 giảng viên các loại.
Chương trình bậc đại học của
Myanmar kéo dài từ 3 đến 6 năm tùy theo từng ngành học. Sau khi tốt nghiệp,
sinh viên được cấp bằng đại học với các tên gọi như: cử nhân, kỹ sư, kiến trúc
sư, bác sĩ. Ngoài ra, dưới sự hướng dẫn của Trung tâm phát triển nguồn nhân lực
quốc gia, các trường cao đẳng và đại học cũng tổ chức những khóa học ngắn hạn
(từ 3 – 9 tháng). Học sinh hoàn thành khóa học sẽ được cấp chứng chỉ.
Tất cả
các trường đại học và cao đẳng tại Myanmar do chính phủ điều hành. Chương
trình học và bằng cấp do các Bộ tương ứng cấp và quản lý. Ví dụ, Bộ Y tế sẽ
điều hành và quản lý Học viiện Y dược I, II và Học viện Y học nha khoa; Bộ
Khoa học và Công nghệ quản lý Học viện khoa học và công nghệ, Đại học công nghệ Yangon và Mandalay; Bộ Nông
nghiệp và Thủy lợi quản lý trường Đại
học Nông nghiệp; Bộ Văn hóa quản lý Đại học văn hóa v.v...
Phân bố các trường đại học và cao đẳng tại
Myanmar
STT
|
Bang/Vùng
|
Trường Đại học & Cao đẳng
|
1
|
Vùng Ayeyawady
|
12
|
2
|
Vùng Bago
|
9
|
3
|
Bang Chin
|
1
|
4
|
Bang Kachin
|
8
|
5
|
Bang Kayah
|
3
|
6
|
Bang Kayin
|
4
|
7
|
Vùng Magway
|
14
|
8
|
Vùng Mandalay
|
32
|
9
|
Bang Mon
|
5
|
10
|
Bang Rakhine
|
4
|
11
|
Vùng Sagaing
|
12
|
12
|
Bang Shan
|
12
|
13
|
Vùng Taninthayi
|
7
|
14
|
Vùng Yangon
|
34
|
|
TỔNG CỘNG
|
156
|
Nguồn: Bộ Giáo dục Myanmar -
2010
Ngoài các trường cao học, đại
học trong nước, học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông có thể theo học chương
trình liên kết đào tạo quốc tế giữa trường đại học, cao đẳng của Myanmar với tổ
chức đào tạo nước ngoài như các Tổ chức TAA của Hàn Quốc, một số trường của
Nhật Bản, Singapore, Thái Lan, Malaysia
v.v...
+. Giáo dục sau đại học
Thạc sĩ: Các sinh viên sau khi tốt nghiệp
đại học, có nhu cầu học cao học và vượt qua kỳ thi tuyển sinh cao học hằng năm
sẽ được tham dự các khoá đào tạo cao học để nhận bằng Thạc sĩ. Thời gian đào tạo
thường là 2 năm, có thể dài hơn hoặc ngắn hơn phụ thuộc vào quy định của chuyên
ngành và của cơ sở đào tạo.
Tiến sĩ: là bậc đào tạo cao nhất ở
Myanmar hiện nay. Tất cả các cá nhân tốt nghiệp cao học đều có quyền làm nghiên
cứu sinh với điều kiện phải vượt qua kỳ thi tuyển nghiên cứu sinh hàng năm. Thời
gian làm nghiên cứu sinh thường là 5 năm. Sau khi hoàn thành và bảo vệ thành
công luận án, các nghiên cứu sinh sẽ được cấp bằng Tiến sĩ.
+ Giáo dục
dân lập
Tại
Myanmar, ngoài hệ thống trường học quốc lập được Nhà nước cấp kinh
phí, còn có hệ thống trường dân lập với số lượng ngày càng tăng,
đặc biệt là những Trung tâm đào tạo ngoại ngữ, tin học, kế toán và một số
ngành kinh tế khác.
Với xu
hướng tự do hóa nền kinh tế và tăng cơ hội tìm việc làm, nhiều thanh niên trẻ
đã chuyển sang lựa chọn các khóa học của các trường dân lập. Các trường dân
lập có nhiều lợi thế trong cạnh tranh với các trường công lập về các lĩnh vực
trên vì các trường dân lập dễ dàng cập nhật thông tin, cơ sở vật chất tốt và
có điều kiện để thuê đội ngũ giáo viên giỏi đáp ứng được yêu cầu của học sinh.
Tại Yangon
và các thành phố lớn khác của Myanmar, trường dân lập là nhu cầu
thiết yếu đối với con em tầng lớp quan chức và giới thượng lưu. Thông
thường, sau khi tốt nghiệp các trường phổ thông trung học dân lập, các
học sinh con nhà khá giả sẽ có vốn kiến thức và tiếng Anh tốt dễ dàng
đi du học tiếp ở những nước có nền giáo dục cao hơn Myanmar.
+ Giáo dục đặc
biệt
Giáo
dục đặc biệt tại Myanmar thuộc sự quản lý của Ban chính sách xã hội (DSW) trong
Bộ Phúc lợi xã hội. Ngoài ra, các tổ chức phi chính phủ cũng tổ chức các lớp học
cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt như trẻ khuyết tật, trẻ có khó khăn về điều kiện
kinh tế, trẻ em lang thang đường phố, nạn nhân của tệ buôn người, trẻ em bị mắc
bệnh HIV v.v…
Myanmar
hiện có một số Trường và Trung tâm giáo dục, đào tạo đặc biệt dành
cho trẻ em khiếm thị, khiếm thính, khuyết tật… do Bộ Phúc lợi xã
hội quản lý và do các Tổ chức phi chính phủ tài trợ.
+ Giáo dục
không chính quy và giáo dục cho người trưởng thành
Ngoài hệ
thống giáo dục chính quy, Myanmar còn có hệ thống Tu viện Phật giáo tồn tại
từ nhiều thập kỷ qua giành cho con em các gia đình nghèo. Hệ thống Tu
viện Phật giáo đóng một vai trò quan trọng trong nền giáo dục Myanmar. Vào
những năm 1960, các Tu viện này bị Nhà nước quốc hữu hóa. Hiện nay, có khoảng
93.000 học sinh theo học tại 1.500 Tu viện trong phạm vi cả nước.
Học sinh
của các Tu viện thường là trẻ em của những gia đình có điều kiện kinh tế khó
khăn không thể theo học các trường công lập và dân lập. Tuy nhiên, các Tu
viện Phật giáo thường bị hạn chế về số lượng phòng học và cơ sở vật chất khác.
Hiện nay chính phủ Myanmar chưa có văn bản hướng dẫn công nhận bằng cấp, chứng
chỉ của các Tu viện, nhưng hệ thống các Tu viện vẫn tồn tại kể ở các làng
bản, khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa nơi chưa có trường học chính quy.
Chương
trình giáo dục giáo dục không chính quy gồm hai giai đoạn: Giai đoạn 1 là giáo
dục cơ bản nhằm dạy cho người dân biết đọc, viết và thực hiện những phép tính
cơ bản. Giai đoạn 2 là đào tạo hướng nghiệp nhằm trang bị kiến thức cho người
dân với mục tiêu: nâng cao thu nhập; cải thiện chất lượng cuộc sống; định hướng
tương lai cho thế hệ trẻ.
Với sự
đồng ý của chính phủ Myanmar, các tổ chức phi chính phủ đã thành lập các Trung
tâm học tập cộng đồng (CLC) tại các làng bản chưa được tiếp cận với các trường
công lập. Mô hình CLC được chính quyền địa phương và người dân tích cực hưởng
ứng bởi tính ưu việt của nó. Đến năm 2010, nhiều Trung tâm CLC được thành lập
trong cả nước.
Bộ Giáo
dục Myanmar đã triển khai thí điểm chương trình giáo dục điện tử
nhằm tư vấn cho học sinh và phụ huynh
học sinh lớp 9 lựa chọn môn công nghệ thông tin – IT cùng với 8 môn cơ bản khác
trong trường trung học phổ thông hoặc chương trình định hướng cho học sinh
trước khi thi vào các trường đại học và cao đẳng, chương trình bồi dưỡng
tiếng Anh trong khi chờ kết quả kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng.
Ngoài ra,
giáo dục điện tử cũng giúp cho giáo viên nâng cao chất lượng bài giảng. Các
khóa học nâng cao nghiệp vụ sư phạm, bồi dưỡng tiếng Anh cho giáo viên Trung
học cơ sở được thiết kế theo hình thức bài giảng điện tử.
Tháng 3
năm 2010, Bộ Giáo dục Myanmar thành lập “Trung tâm xóa mù chữ” (MLRC) dưới
sự quản lý của Phòng nghiên cứu giáo dục. Ngoài mục tiêu cung cấp giáo dục cơ
bản cho nhân dân, MLRC còn đào tạo cho họ một ngành nghề nào đó để nâng cao
thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống. Kết quả của dự án “Giáo dục cho
mọi người” (EFA) là giảm được tỷ lệ mù chữ ở người trưởng thành từ 22% năm
1990 xuống 11% vào năm 2000.
Một trong
chương trình được chính phủ Myanmar quan tâm đầu tư phát triển là chương trình
giáo dục cho người trưởng thành tại các khu vực biên giới. Với chủ trương một
quốc gia đa dân tộc cần được công bằng trong giáo dục, tạo điều kiện cho tất
cả các dân tộc đều có điều kiện tiếp cận với nền giáo dục quốc gia, đặc biệt
là khu vực biên giới là nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục. Vì vậy, các Bộ,
Ban, Ngành đã tổ chức những khóa học khác nhau cho người dân vùng biên giới.
Các lớp xóa mù chữ được tổ chức vào những dịp nghỉ hè. Để triển khai có hiệu
quả những lớp học này, Bộ Giáo dục Myanmar đã xuất bản sách giáo khoa bằng
tiếng dân tộc.
6. Cơ sở vật chất, trang thiết bị
dạy học
+ Cơ sở vật
chất
Ở
Myanmar, hệ thống trường quốc lập từ trung học đến cao đẳng, đại học và các trường
trung cấp dạy nghề v.v... đều do Nhà nước và các Bang, Vùng xây dựng cơ sở hạ tầng
và trực tiếp quản lý. Riêng hệ thống trường tiểu học do chính quyền địa phương và phụ huynh học sinh xây dựng và quản lý, Nhà nước chỉ hỗ trợ
phần nào.
Vì vậy, các trường tiểu học thường được xây dựng
đơn giản do thiếu nguồn tài chính. Theo báo cáo của Tổ chức giáo dục - MERB năm
1992 cho biết vật liệu xây dựng của ½ số trường tiểu học được lấy từ thiên
nhiên như tre, nứa, gỗ v.v...
+ Sách giáo
khoa
Hội đồng
sách giáo khoa quốc gia chịu trách nhiệm biên soạn và cung cấp toàn bộ sách
giáo khoa cho cấp giáo dục cơ bản. Nội dung sách giáo khoa được thống nhất
trong cả nước. Sở Giáo dục các Bang, Vùng chịu trách nhiệm in sách. Học sinh
được mua sách giáo khoa với giá ưu đãi. Chính quyền cấp Quận, Huyện sẽ mua sách
từ Sở Giáo dục phân phối lại cho các trường. Hội đồng sách quốc gia đã biên soạn được 22 đầu sách
cho bậc tiểu học. Mỗi cuốn giá từ 55-170 kyat tùy từng cấp học.
7. Đội ngũ giáo viên
Năm học
1997 - 1998 tại Myanmar có 2 trường Đại học sư phạm, 5 trường Cao đẳng và 14 trường trung
cấp sư phạm đào tạo ra đội ngũ giáo viên các cấp. Các trường đại học đào tạo
đội ngũ giáo viên dạy trường Trung học phổ thông, khóa học kéo dài 4 năm và tốt
nghiệp với bằng cử nhân. Sinh viên tốt nghiệp các trường cao đẳng sư phạm sẽ
trở thành giáo viên các trường Trung học cơ sở.
Năm học
2010 - 2011, không kể 11.252 giáo viên đại học và cao đằng, số lượng
giáo viên các cấp phổ thông của Myanmar là 271.194 người, trong đó có
180.233 giáo viên tiểu học, 64.371 giáo viên trung học cơ sở và 26.590 giáo
viên trung học phổ thông. Tỷ lệ giáo viên/học sinh trung bình năm học 2010
-2011 là 1/30, đạt mức trung bình trong khu vực Đông Nam Á. [3]
CCP
[1] Năm 1958, Đại học Yangon được quốc tế
xếp thứ 19 thế giới về quy mô và chất lượng đào tạo. Nguồn: Bộ
Giáo dục Myanmar
[2] Do kinh tế kém phát triển, tỷ trọng
chi cho ngành giáo dục đào tạo trong GDP khá thấp, khoảng 1,1 - 1,3%/GDP/năm.
[3] Nguồn: Bộ Giáo dục Myanmar
-2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét