Doanh nghiệp đang giãy chết mới cần cứu
- Theo đánh giá của ông thì gói giải pháp 29.000 tỷ đồng có giúp vực dậy được các doanh nghiệp?
TS. Bùi Kiến Thành: Hiện
doanh nghiệp đứng trước tình trạng khó khăn: Không tiếp cận được nguồn
vốn vay, lãi suất quá cao, hàng hóa đắp chiếu, máy móc ngừng hoạt động,
công nhân thất nghiệp… Vấn đề là phải tạo điều kiện và môi trường cho
doanh nghiệp phát triển vững vàng đi lên. Lúc này, chính sách tiền tệ
phải đứng hàng đầu.
Gói giải pháp là cần thiết, nhưng cách
làm cụ thể thì tôi không đồng tình. Ví dụ như cho phép doanh nghiệp được
giãn thời gian nộp thuế VAT từ tháng 4 – 12 mới phải nộp. Thực sự điều
này không giúp được nhiều cho doanh nghiệp. Cái doanh nghiệp cần là hàng
tồn kho quá nhiều, phải có giải pháp tiêu thụ.
- Về việc giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp thì sao thưa ông?
Bất hợp lý. Bao nhiêu doanh nghiệp làm ăn
có lãi để mà nộp thuế? Doanh nghiệp đang giãy chết là bao nhiêu? Số
doanh nghiệp xin giải thể tăng gấp mấy lần năm vừa rồi. Việc giảm 30%
thuế không thể giúp các doanh nghiệp đang cần giải cứu. Doanh nghiệp còn
có khả năng đóng thuế là họ đã làm ăn kha khá rồi, họ đâu cần giải cứu.
Đối với một doanh nghiệp, thuế chỉ là một
phần nhỏ. Quan trọng là doanh nghiệp đó nuôi bao nhiêu lao động, tạo ra
bao nhiêu việc làm và thu nhập, thu nhập đó để mua hàng hóa khác, tạo
ra việc làm khác. Khi đó thì không cần phải sử dụng quỹ bảo hiểm thất
nghiệp. Phải tạo điều kiện doanh nghiệp hoạt động tốt. Giải pháp là phải
giải quyết hàng tồn kho bằng miễn thuế VAT cho người ta bán được hàng,
cho người ta vay bằng cách nào đó để tiếp tục sản xuất. Làm sao doanh
nghiệp có tiền để hoạt động
- Vậy làm thế nào để giải cứu doanh nghiệp?
Nhà nước phải cần giúp họ ổn định sản
xuất kinh doanh để phát triển. Gói cứu trợ có thể hiểu là mình đã bị tai
nạn rồi, giờ mình mới đem ra để cứu chữa. Không nên để người ta bị bệnh
rồi mới cho uống thuốc. Phải có giải pháp giúp họ không bệnh, khoẻ để
làm việc và đóng thuế cho nhà nước. Để người ta chết rồi mới đem tiền
đến viếng thì không hiệu quả.
Cứu doanh nghiệp: Không cần một xu!
- Ý ông là gói giải pháp này chưa đưa ra được giải pháp hiệu quả?
Tổng thể các giải pháp ước khoảng 29.000
tỷ đồng. Nhưng nó chưa đưa ra được giải pháp căn cơ nhất. Nhưng theo
tôi, Chính phủ không cần phải dùng một xu nào mà vẫn có thể cứu nền kinh
tế. Ngược lại Ngân hàng nhà nước có thể thu được lợi nhuận về cho ngân
sách.
- Bằng cách nào thưa ông?
Ngân hàng nhà nước cho các ngân hàng
thương mại vay với lãi suất 3 – 4% để các ngân hàng thương mại cho các
doanh nghiệp vay với lãi suất 7 – 8%. Không dựa vào vốn huy động của hệ
thống ngân hàng thương mại với lãi suất 15% như hiện nay. Chính phủ
không tốn đồng xu nào mà ngân hàng trung ương còn thâu tóm được 3 – 4%
lãi suất từ ngân hàng thương mại.
- Nhưng Ngân hàng Nhà nước lấy đâu ra tiền để cho vay?
Ngân hàng Nhà nước là ngân hàng trung
ương. Ngân hàng trung ương để điều tiết lưu lượng tiền tệ cho nền kinh
tế phát triển ổn định bền vững, không gây ra lạm phát hay thiểu phát.
Cùng với trách nhiệm điều tiết lưu lượng tiền tệ cho nền kinh tế phát
triển bền vững, ngân hàng trung ương có quyền phát hành giấy bạc, tiền
tệ, tín dụng để đảm bảo lưu lượng tiền tệ cần thiết cho nền kinh tế phát
triển. Thế nên, tiền ở trong tay ngân hàng trung ương.
- Khi đó phải làm thế nào để không xảy ra lạm phát thưa ông? Hẳn là không thể thích in bao nhiêu tiền cũng được?
Lạm phát là khi trong nền kinh tế có quá
nhiều tiền lưu thông, nhiều phương tiện thanh toán chạy theo một số
lượng hàng hóa có hạn.
Tăng trưởng tín dụng của ta hiện nay
không được vượt quá 17% so với năm trước. Giảm vấn đề tăng tín dụng để
hãm lưu lượng tiền tệ khỏi sinh ra lạm phát. 17% trong tổng lượng tín
dụng của Việt Nam hiện nay khoảng 2 triệu 2 trăm ngàn tỷ đồng thì tính
ra khoảng hơn 400 nghìn tỷ đồng.
Trong hạn mức 400 nghìn tỷ đồng này, Ngân
hàng trung ương có thể dành 200 nghìn tỷ đồng cho các ngân hàng thương
mại cho doanh nghiệp vay để sản xuất kinh doanh. Còn ngân hàng thương
mại vẫn được quyền huy động lãi suất trong dân đến 17% để cho vay lĩnh
vực tiêu dùng có thể chấp nhận mức lãi suất cao. Với hạn mức đã định,
khống chế tăng trưởng tín dụng, thì không thể lạm phát được.
- Nhưng làm thế nào để kiểm soát đúng đối tượng được vay?
Phải cho vay đúng mục tiêu chứ không cho
vay theo đối tượng. Vay tiền phải có dự án khả thi. Ngân hàng phải giám
định từng dự án một để mà cho vay đúng theo mục tiêu của chương trình.
Anh nào vi phạm thì phải chịu trách nhiệm về dân sự và hình sự. Việc đó
không có gì là khó cả.
- Theo ông thì những người đứa ra gói giải pháp có biết điều này không?
Có lẽ phải hỏi Ngân hàng Nhà nước.
- Ông có bao giờ đề đạt ý kiến này của mình?
Tôi có nói, nhưng họ cho rằng điều kiện ở
Việt Nam mình khác nên chưa thể áp dụng được. Có lẽ là những người có
trách nhiệm không hiểu, hoặc hiểu nhưng không dám trình bày ý kiến của
mình.
Một vế của nền kinh tế bị chết
- Chỉ số giá tiêu dùng quý 1 năm nay
được công bố gần như không tăng, ở mức 0,05%, tức là giá cả không tăng,
nhưng vì sao không ai vui?
Hàng hóa không có ai mua thì giá cả nó
đâu thể tăng được. Làm sao mà vui được. Xưa thấy cái ti vi mới đẹp là
mua về để chơi, bán hoặc cho đi ti vi cũ. Nhưng giờ thì không. Từ cái
nồi cơm điện đến cái quạt người ta cũng hạn chế mua. Các siêu thị điện
máy ế ẩm…
- Dường như khó khăn đã ảnh hưởng đến từng cá nhân trong xã hội?
Đúng vậy, thay vì mua những thứ người ta thích thì người ta chỉ mua những thứ mình cần.
- Từ trước đến giờ, đã khi nào xuất hiện những giai đoạn kinh tế khó khăn tương tự như hiện nay chưa thưa ông?
Có. Nhưng không nguy hiểm như bây giờ.
- Vậy tình huống xấu nhất của thực trạng kinh tế này có thể là gì?
Tổng sản phẩm quốc nội sẽ thấp, kinh tế đình đốn, không có sản xuất…
- Theo ông, khi nào chúng ta có thể hy vọng nhìn thấy một bức tranh kinh tế sáng sủa hơn?
Đến khi nào mà cái đà phá sản của doanh
nghiệp được phanh lại, doanh nghiệp bắt đầu làm ăn được. Doanh nghiệp
sản xuất ra hàng hóa, tạo ra việc làm, việc làm tạo ra thu nhập. Kinh tế
là sản xuất và tiêu dùng chứ có gì đâu. Giờ anh sản xuất bị kẹt chết
thì một vế của nền kinh tế bị chết.
- Xin cảm ơn ông!
—————————————————-
Năm 2009, Chính phủ cũng đã đưa ra gói
cứu trợ 20 nghìn tỷ đồng để hỗ trợ 4% lãi suất cho doanh nghiệp. Khi đó,
lãi suất trên thị trường là 150% lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước
(lãi suất cơ bản lúc đó là 8%). Nhà nước trả 4% đó cho ngân hàng giúp
doanh nghiệp. Sau 2 năm thì tăng trưởng tín dụng lên đến hơn 60%, lạm
phát bùng phát.
Năm 2010 ta mới hoảng hồn về lạm phát,
đến 2011 mới thực hiện kiềm chế lạm phát. Gói cứu trợ này ảnh hưởng đến
nền kinh tế ở chỗ không cho vay theo dự án mà cho vay theo đối tượng.
Người ta vay về mà không có nghĩa vụ phải dùng đồng tiền đó vào việc gì,
mà nó là vốn lưu động nên họ làm gì cũng được. Một số công ty cho vay
lại với lãi suất đến 15-16%. Thế nên nó mới tạo ra biết bao nhiêu dự án
nhà mọc lên xây mọc lên nhan nhản rồi để đó.
(Theo Kiến thức)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét