Thứ Ba, 7 tháng 6, 2011

Chú Tư, con là ai - Chương 5

5

Có ghe rồi tối đó tôi không qua ngủ với con Gấm nữa mà ngủ ở ghe nhà mình. Tôi ngủ một giấc thiệt đã, sáng hôm sau vừa tỉnh dậy đã nghe dì Tám kêu:
- Nhung à, hàng ngày mày làm gì con?
- Làm mấy việc linh tinh thôi dì.
- Vậy thế này nghe, lúc rảnh mày qua phụ cho dì, cuối ngày dì cho tiền.
 Ghe cà phê của dì Tám luôn vui nhộn, người tới người lui không mấy khi ngớt, phần lớn họ là những người ở bển qua làm cá thuê vào mùa cá đìa. Dì Tám mới mua được một cái cát-xét cũ, dì phát thường trực mấy bài ca vọng cổ.
Dì nói vọng cổ ban ngày thì hợp với bia với cà phê, ban tối hợp với rượu. Những người tới lai rai buổi tối thường là để nói chuyện mua bán cá, rủ nhau hôm sau đi làm những gì, ở đâu. Trong bọn họ có hai người đàn ông cùng si mê dì Tám là Bảy Hoách và Đời. Họ thường ngồi uống rượu, uống tới xỉn mà không ai rút về trước. Chồng dì Tám đã bị Pốt đập chết, quăng xác trôi sông, dì Tám ở goá nuôi con. Vậy mà càng ngày dì càng xinh, đôi con mắt sáng lúng liếng đong đưa khiến cho khối người mơ tưởng. Bảy Hoách ốm nhách, có đồng nào bỏ vô rượu sạch trơn, lúc say xỉn thì đòi dê dì, luôn miệng kể lại chuyện tận mắt thấy cảnh chồng dì Tám bị Pốt đập đầu bỏ trôi sông. Nếu có ai hỏi sao Pốt không đập đầu hắn thì Bảy Hoách nói lúc đó hắn trốn trên cây gòn um tùm, một đại đội Pốt cũng không làm gì được hắn, còn hắn thì thấy hết bọn Pốt đập đầu người ta như thế nào. Bảy Hoách biểu sau lần đó hắn sợ quá nên mới nhậu, nhậu xỉn tới giờ luôn. Mỗi lúc Bảy Hoách tới nhậu mà có Đời thì họ lộn nhau hoài, dì Tám cực về vụ này lắm. Có lần chịu hết nổi dì Tám kéo họ đuổi khỏi ghe:
- Về hết đi cho tao nhờ, đừng có lại quậy quán tao. Mấy con sâu rượu tao không có thương đứa nào hết.
Một lần họ ngồi uống từ chiều tới tối, mỗi người mỗi góc, vậy mà một chốc ngó ra đã thấy họ ngồi sát vô nhau. Lúc đó họ xỉn rồi. Đời quàng tay ôm Bảy Hoách, nói:
- Mày là Bảy, tao biết rồi. Mày đừng tới uống nữa nghe, Tám là người thương của tao.
Bảy Hoách trợn mắt lên, cầm tay Đời hất ra:
- Tao lại đây uống trước, tao thương con Tám trước, sao mày tính giành của tao!
- Tao lại trước, tao thương trước, mày lại sau mày giành cái gì!
Cứ như thế hai người cãi lộn tùm lum, tới không ai chịu ai liền đứng cả lên lấy ly chọi nhau. Mọi người trong quán xúm vô ngăn. Dì Tám giận lắm, la lớn:
- Mấy thằng xỉn, tao không có thương thằng nào, về hết đi.
Bảy Hoách cầm chiếc ly bể, coi dễ sợ, miệng lèm bèm:
- Sao em đuổi anh, anh thương em mà sao em đuổi anh.
Mọi người khích có giỏi lên bờ uýnh nhau. Bị khích quá trời, hai người kéo nhau lên bờ đìa thiệt. Tôi thấy thương Đời ở dưới lên làm thuê mà say rượu gây gổ nên nói khẽ với riêng hắn:
- Đừng dây vô thằng chả đó, nó chưa có ngán ai bao giờ đâu.
Đời đẩy tôi ra vừa lúc Bảy Hoách vớ được một đoạn cây khô liền lao tới tương bể đầu Đời. Thấy máu chảy, Bảy Hoách xiêu vẹo bỏ đi. Đời vừa ôm mặt vừa la làng, than khóc như đàn bà. Tôi vội vàng vớ nắm lục bình, bứt lấy rễ, vắt nước rồi đắp vô chỗ chảy máu cho Đời, tôi nhớ má đã từng lấy rễ lục bình đắp lên vết thương trên má cho chú Tư. Đắp cho hắn khỏi chảy máu mà hắn còn không cho đắp, phải hai ba người giữ cho tôi đắp rồi lại phải dìu hắn trở xuống ghe. Ngồi gục một chặp tỉnh rượu, hắn quay qua biểu tôi:
- Này nhỏ, có cháo cho một chén.
Dì Tám biểu tôi đem cháo đến cho hắn. Ăn hết cháo hắn lại gọi:
- Này nhỏ, cho ly cà phê đá.
Tôi mang cà phê tới. Hắn vừa quậy đá vừa dòm tôi:
- Tưởng còn nhỏ, hoá ra cũng lớn dữ.
- Đâu có, tôi còn nhỏ.
- Dạy thì rồi, ngon như dì Tám mày rồi. Bán cà phê lâu chưa?
- Phụ dì Tám chút đỉnh, đâu có bán cà phê.
- Vậy hàng ngày làm gì?
- Vớt ốc, hôi cá.
- Hôi được nhiều không?
- Ít. Toàn cá bổi cá sặt.
- Vậy mai đi hôi nhé. Anh bắt cá to anh giấu cho.
Lúc này coi Đời hiền dữ, đâu có vẻ gì của người nát rượu. Ngồi thêm một chặp hắn móc tiền trả, đếm đi đếm lại vẫn thiếu.
- Tám cho anh thiếu ly cà phê, mai trả.
Dì Tám móc máy:
- Đi bắt cá thuê được ít tiền bỏ vô rượu vô gái hết, vợ con ở dưới còn trông cậy gì vào cái thứ các người.
Theo hẹn, tôi đeo giỏ xắn quần đi hôi cá đìa. Rất nhiều người hôi kéo nhau đi sau người bắt cá một quãng xa. Tôi vừa lội bùn vừa để ý dòm Đời. Hắn hứa giúp tôi lúc hắn còn xỉn, chắc gì đã giữ lời. Tôi co chân lên rồi bước tới, vừa bước xuống thì dẵm trúng con rắn. Con rắn có vẻ bự, luồn ngoằng ngoẵng mãi dưới bàn chân. Tôi hoảng quá vùng chạy nhưng không chạy được. Bùn mút chân đâu có thể rút lên dễ dàng. Đời quay lại nhìn tôi khích lệ. Hắn vừa bắt được một con cá to, ấn xuống bùn, vớ một cây lục bình đặt lên làm dấu. Tôi đi tới chỗ đánh dấu, thọc tay vô bùn lần tìm, khi đụng con cá quẫy mạnh quá, bùn bắn tung toé, vẩy hết lên mặt lên đầu. Chắc sức mình tôi không bắt được con này, đang loay hoay không biết tính sao thì anh Din đi tới.
- Anh Din bắt hộ em con cá.
- Sao tự mày không bắt lấy.
- Con cá lớn quá, nó vụt bùn vào đầy mặt, giờ không thấy đường.
- Chỗ nào?
- Chỗ cái cây lục bình này.
Anh Din thọc tay vô bùn, nhoằng cái đã nắm chặt đầu con cá lóc lôi lên. Vừa lúc đó có người đi tới, anh Din quay qua chào:
- Anh Ba, sao anh còn đi sau.
- Đâu có, tao đi kiểm tra coi tụi bay có trộm cá không chớ đâu có đi hôi. Mày vừa bắt được con gì?
- Con cá lóc nhỏ thôi mà, em bắt hộ con Nhung đó anh Ba.
- Con cá bự thế đâu là nhỏ, con cá vậy là phải trả cho chủ vựa rồi chớ hôi sao được. Nhưng thôi, của con Nhung thì tao cho qua.
Ít lâu sau có một người tới dựng chòi kế bên cái chòi cũ của chú Tư, tôi nhận ngay ra anh ta là Ba Khuông, là cái người đã bỏ qua cho tôi chuyện con cá lóc bự. Anh này từ dưới lên bắt cá thuê, hàng ngày đi về hay gặp người con gái tên Bảy Quyên, trêu chọc nhau riết rồi dính vô thương nhau, rốt cục Bảy Quyên có bầu vượt mặt. Ba Khuông liền dựng cái chòi đó lên rồi đưa Bảy Quyên về ở, chẳng cưới hỏi gì. Bụng to dữ vậy mà Bảy Quyên ban ngày vẫn đi gặt thuê, ban đêm lại theo Ba Khuông đi canh đìa thuê, mọi người có can ngăn thì Ba Khuông oang oang nói ở nhà giữ gìn thì lấy cái gì bỏ vô miệng. Một buổi chiều Ba Khuông đứng trên đê gọi với xuống ghe:
- Anh Tư à, anh cho cái Nhung đi trợ tụi em một vài tối đi.
Chú Tư hỏi lên:
- Tụi bay đi canh lúa thì nó trợ được cái gì?
- Con Bảy không biết tính ngày nào sanh, nhỡ ra đang đêm nó sanh thì một mình em biết xoay xoả thế nào.
- Vậy à! Buổi tối con Nhung cũng chỉ qua con Gấm ngủ chớ có bận gì. Để tao hỏi nó coi.
Ai chớ Bảy Quyên thì tôi biết, nghe nói hơn tôi đâu có mấy tuổi à. Cả nhà Bảy Quyên ở xếp thìa trên một chiếc xuồng lớn, mấy đứa em Bảy Quyên mặc chung nhau một chiếc quần xà lỏn màu đen. Dì Tám cà phê biểu nhà ấy sẽ phải chịu cực suốt cuộc đời bởi vì ba nó nát rượu quá chừng, đã nát rượu lại còn bạo lực. Ba nó đi nhậu từ tối tới sáng, về tới nhà là ói, về tới nhà là đánh đập mấy đứa con với bà vợ, tới mức lão mò về là cả nhà bỏ chạy qua hàng xóm trốn tiệt. Lão không thấy ai, chửi bới om xòm, đem mấy cái chén cái dĩa liệng hết xuống sông, một chập lăn ra ngủ. Tới lúc ấy cả nhà mới kéo nhau về, má Bảy Quyên ngồi khóc bên cạnh người chồng khốn quẫn lúc ngủ hiền như cục đất. Ngủ dậy vươn vai rồi lão lẳng lặng nhảy xuống sông ngụp lặn tìm vớt xấp chén dĩa, liệng bảy vớt lại được ba, cứ như thế tới lúc cả nhà chỉ còn vài ba cái chén sứt.
Tôi thường gặp Bảy Quyên trên đìa, đã đôi lần lên chòi chơi với chị, vậy mà đâu có biết chị ấy mang bầu. Tôi nhận lời đi với chị ngay, lại còn thấy rất vui nữa. Chú Tư biểu tôi mang theo cái khăn quấn cổ kẻo đêm ngoài đồng gió lạnh, đây là cái khăn cà ma của má, không hiểu sao còn sót lại trong bọc đồ của tôi.
 Chị Bảy đi trước tôi trên bờ ruộng gập ghềnh, bước thấp bước cao coi chỉ chực té. Đêm tối đã bao phủ khắp cánh đồng, ban ngày nóng rát mà về tối gió mát lạnh, gió mang theo mùi hăng của bùn đìa cạn và mùi thơm dịu của lúa chín. Chúng tôi ngang qua khu đìa, đi mải miết một chập thì tới cánh đồng lúa. Anh Ba Khuông dẫn chúng tôi tới một cái gò nhỏ, cái gò y hệt một cù lao giữa biển lúa. Anh trải xuống một tấm ni lông rồi biểu:
- Hai chị em nằm đây mà ngủ, anh đi tuần một chập rồi trở lại.
Tôi hỏi:
- Không sợ muỗi chích chị Bảy à anh Ba?
- Con này ngố ghê, gió thế này lấy đâu ra muỗi.
Ba Khuông bỏ đi liền, không quên cầm theo cái liềm, thoáng cái đã biến mất trong đêm tối. Chị Bảy mệt mỏi nằm xuống, cái bụng chửa khum lên căng tròn. Tôi tò mò rờ vô đó, rõ ràng thấy có cái gì chuyển động bên trong. Chị Bảy nói:
- Nó đấy, nó đạp đấy.
- Có đau không?
- Đau lắm chớ.
- Vậy thì sợ chết được.
- Đàn bà ai chẳng phải qua sanh nở. Rồi mày cũng như chị.
- Chắc gì.
- Chắc chớ sao không, sống ở đời ai mà chẳng vậy.
- Sanh đẻ đau lắm hả chị?
- Chắc đau đớn lắm, nhưng mấy bả biểu chị đừng có sợ. Người ta sanh hoài, có bà năm nào cũng sanh, tự sanh chớ đâu có mụ. Má chị sanh tưng đấy lần mà có mấy lần mời được mụ.
- Eo ơi, sợ chết khiếp. Chắc em không lấy chồng quá à.
- Khi đầu chị cũng nói y hệt như mày, nhưng rồi gặp ảnh, ảnh thương. Thế mới kỳ chớ, ai biết đâu được lại có người đàn ông to cao đẹp trai như vậy thương mình.
Chị Bảy im lặng một chút, chắc chị đang hồi tưởng lại cái lúc anh chị thương nhau. Một lần lên chòi chơi với Bảy Quyên tôi cũng bắt gặp hai người đang làm chuyện ấy. Trong đầu tôi nghĩ thương nhau là chỉ tới cấp như chú Tư ôm hun út Thủy thôi, út Thủy đẹp rực rỡ như hoa như nắng vậy mà nay đã chết hóa đất nằm ở một nơi nào cũng chẳng ai biết đến. Nhưng tới cái lần bắt gặp anh Ba với chị Bảy thương nhau trong chòi thì tôi đã biết nhiều hơn, giờ này nhớ lại còn thấy run thấy gai cả người. Khi đó đang tầm trưa, nắng gắt nhưng nhiều gió, tôi cứ theo thói quyen hồn nhiên chui tọt vô chòi, khi thấy hai người ở trần ghì riết lấy nhau thì tôi hiểu ngay họ đang làm gì, vội vã quay ngoắt chạy một mạch về ghe. Chị Bảy thấy tôi im lặng liền lấy tay khều khều tôi.
-                        Bộ mày buồn ngủ rồi hả?
-                        Không có, chị nói chuyện tiếp đi.
- Lần đầu ảnh thương chị ở ngay cái gò này, ảnh cũng ngồi như mày ngồi bây giờ đó. In hệt.
- Chỉ ngồi vậy mà mang bầu được sao?
- Mày gặp tụi tao thương nhau một lần rồi, tự khắc mày biết, ngồi không vậy sao mà có bầu.
Vậy ra chị cũng biết tôi đã bắt gặp hai người. Lần đó tôi đâu có kể cho ai ngoài con Gấm. Gấm tò mò lắm, nó nói thế nào họ cũng còn làm nữa, rủ tôi rình trộm coi. Tôi biểu nó đâu có làm thế được, chuyện họ thương nhau ra sao mà trộm coi nó kỳ lắm. Vậy mà con Gấm vẫn lén đi hai lần, nhưng nó đâu có coi được cái gì.
Tôi xoa xoa bụng cho chị Bảy, chút xíu sau chị Bảy đã ngáy đều đều. Tôi ngả nằm bên chị, nhìn lên thấy bầu trời toàn trăng, mênh mông là trăng, ánh trăng đung đưa trong gió lướt trên đồng lúa thơm phưng phức. Tối hôm sau tôi cũng đi cùng Bảy Quyên, từ phía sau ngó tới thấy chị bước đi nặng nề ộ ệ lắm rồi. Đến gò đất chị nằm liền xuống bãi cỏ, tôi lại xoa bụng cho chị nhưng chị không ngủ được lẹ như tối trước mà cứ trăn trở hoài. Anh Ba Khuông đi được một chặp thì chị cầm tay tôi hỏi:
-Anh Ba đâu?
- Ảnh đi rồi.
- Kêu ảnh trở lại đi, chị đau dữ lắm rồi.
- Chị đau đẻ à?
- Chị không biết nhưng coi chừng vậy lắm. Kêu ảnh lẹ lên!
Tôi vụt đứng dậy, chạy vội giữa những vạt lúa tìm anh Ba. Đêm sáng trăng, cánh đồng bao la chỉ lờ mờ trăng bạc, nhìn đâu cũng chỉ thấy bóng đen những cây thốt nốt đứng lù lù trong ánh trăng bạc, biết ảnh đứng ở khoảnh nào. Tôi dừng lại, lấy hơi rồi bụm miệng kêu:
- Anh Ba, anh Ba ơi, chị Bảy sanh rồi nè!
Tôi nghe rất rõ tiếng tôi, tiếng gọi to mà run, loang ra theo gió. Gọi mấy lần không thấy đáp, tôi vội trở lại với chị Bảy. Chị đang vật vã ngồi dậy, nằm xuống rồi lại ngồi dậy chống chọi với những cơn đau dồn dập. Tôi hoảng hốt khôn cùng, đứng ngây ra nhìn rồi không biết phải làm gì hơn là vội vã xoa bụng cho chị. Chị Bảy kêu gào phát thảm:
-Trời đất ơi, anh Ba ơi, sanh rồi nè…!
Đêm đang ngả dần về sáng, thảm cỏ đã mát sương mà tôi thì mồ hôi ướt đầm áo. Bảy Quyên cũng thẫm mồ hôi, tóc rũ rợi bết trên trán trên má, kêu rên từng chập rồi bất thình lình khựng lại, im bặt. Tôi hốt hoảng, ngỡ chị chết rồi, cầm lấy tay chị lắc mạnh, lắp bắp kêu không thành câu:
- Chị Bảy… chị tỉnh lại đi, đừng có nhát em, em sợ lắm. Chị Bảy, ráng nín tới sớm mai em đi tìm bà mụ cho.
 Giữa lúc đó bỗng nghe có tiếng sột soạt, đứng lên nhìn thấy một bóng đen đi tới. Tôi mừng quýnh:
- Lẹ lên anh Ba, chị ấy đau sắp muốn chết rồi nè.
Anh Ba quỳ xuống đỡ chị Bảy. Được anh Ba ôm vô lòng, chị Bảy có vẻ yên tâm hơn, cầm lấy tay anh Ba đặt vô đũng quần, thều thào:
- Sanh rồi, rớt ra rồi…, cởi ra…!
 Tôi luống cuống phụ anh Ba tụt quần chị Bảy, đũng quần chị Bảy trĩu xuống thành một cái đùm nặng tay, bên trong ngọ ngoạy.Từ chỗ kín của chị Bảy nước nhày lẫn máu chảy ra ướt bết quần, rớt cả xuống cỏ. Tôi cố gắng đỡ chân chị lên, kinh sợ nhưng lại tò mò muốn nhìn vô coi đứa trẻ. Những tia nắng đầu vừa chiếu sáng, tôi thấy trong bọc quần một cái đầu to hơn nắm tay người lớn chút xíu, nhày nhụa rớt rãi lẫn máu, rồi tới cả cái hình hài đầu tiên của một con người với chân tay co quắp rớt xuống mền cỏ. Bảy Quyên yếu ớt quờ quạng tìm anh Ba:
- Cái nhau, cắt rún…, lẹ lên!
Lúc ấy anh Ba mới cuống cuồng luồn tay đỡ đứa bé lên, kêu tôi đưa tới cái liềm, lưỡi liềm ánh lên dưới nắng. Anh Ba nắm chắc cái liềm, thẳng tay cắt phăng cái búi lầy nhầy ra khỏi bụng đứa bé. Bỗng đứa trẻ oe oe khóc, tiếng oe oe tựa như tiếng con ve sầu kêu một mình. Hình như chị Bảy cũng nghe tiếng nó khóc, chị hé mắt cố nhìn đứa con vừa mới từ trong người mình rớt ra, nắng ban mai chiếu vô mặt chị sáng ngời, thế rồi chị mệt mỏi lịm đi. Anh Ba đưa đứa bé cho tôi:
- Bế nó chút đi mày, để anh làm cho nó cái tã.
Tôi nhắm mắt đỡ nó trên tay, rùng mình, vừa muốn ủ nó vô lòng lại vừa sợ bẩn. Anh Ba cởi phăng cái áo màu đen đang mặc, trải ra rồi đặt đứa bé vô, bọc lại. Xong anh biểu:
- Gần đìa có cái xe chở lúa, mày bế đứa nhỏ, còn anh dìu mẹ nó ra tới xe, chở về nhà.
Giờ có cái áo của anh Ba bọc ngoài nên tôi dám ôm nó vô lòng, nâng niu nó, cảm thấy cái hơi ấm từ nó, lại muốn ôm nó chặt vô lòng để truyền qua cho nó cái hơi ấm của mình. Nó vẫn oe oe khóc rất sốt ruột, kiểu chi mà vừa mở mắt đã khóc suốt. Tôi giục anh Ba dìu chị Bảy đi nhanh tới cái xe chở lúa. Ảnh đặt chị nằm vô lòng xe, đặt đứa bé ngay cạnh rồi cầm càng xe kéo đi, biểu tôi theo sau, vừa đỡ đứa trẻ vừa đẩy. Chiếc xe lóc cóc trên mặt đường gồ ghề, mặt chị Bảy phơi ra trắng bệch, máu đỏ tươi chảy không ngớt, rớt thành từng giọt xuống mặt đất. Về tới chòi không bao lâu là mọi người biết tin Bảy Quyên đẻ rớt ngoài đồng, chỉ loáng cái đã đến đông kín chòi, các bà giành nhau tắm cho đứa bé và cầm máu cho chị Bảy. Tôi mệt rũ, đứng thơ thẩn bên ngoài, chợt nghĩ tới khi má sanh tôi ra, chắc cũng đau đớn khó khăn chẳng khác gì chị Bảy vừa sanh đứa bé.
Bảy Quyên là người làm chính, giờ có con với Ba Khuông, ra chòi ở riêng nên cả nhà đã cực nay càng cực. Má của Bảy Quyên không có cách nào xoay xỏa đủ ăn cho mấy đứa nhỏ và ông chồng nát rượu nên mới liều qua nhà dì Tám nài:
- Dì Tám à, dì cho tôi mượn đỡ ít tiền đủ mua cái lưới đi, mùa cá tới rồi. Dì thương lũ nhỏ với, chúng nó đói liền mấy bữa nay rồi.
Dì Tám đang mải lau mấy chiếc ly, kêu tôi tới lau thế rồi kéo ghế ngồi trước mặt bà má Bảy Quyên.
- Cho bà vay tiền rồi tới bà lấy gì mà trả cho tôi!
- Trời mà thương cho trúng vụ cá nầy thì tôi có trả cho dì.
- Lỡ ông trời không thương?
- Trời ơi dì hỏi tôi làm chi mà hỏi cho khó dữ vậy, làm sao tôi trả lời được. Trời mà không thương thì sấp nhỏ chỉ còn cách chết đói chớ biết sao.
- Cái lão chồng bà ấy, nát rượu quá, có chồng mà như bà thì thà cứ ở vậy như tôi nè, sướng hơn.
- Mình muốn mà đâu có được dì!
- Tôi ớn cái lũ nát rượu này quá chừng.
Dì Tám vừa nói vừa thò tay vô trong bụng lôi ra chiếc túi đựng tiền, tháo nút dây buộc, đổ lên mặt bàn một đống tiền. Đếm thành từng xấp rồi đưa bà má Bảy Quyên một xấp.
- Nè, thím cầm một ngàn đi, thiếu đủ chi cũng tưng đó thôi.
Bà má Bảy Quyên với tay chộp lấy xấp tiền, như là giựt ra từ tay dì Tám khiến dì Tám la lên:
- Cái bà này làm gì mà như ăn cướp thế!
Bà má Bảy Quyên cười tươi rói, chắp tay vái dì Tám:
- Sấp nhỏ nhà tôi cúi đầu lạy dì, có lưới kiếm được miếng cơm cho tụi nó thì tụi nó ơn dì suốt đời.
Khi bả đi ra rồi dì Tám nói với tôi:
- Mày coi, cho bả mượn tiền cũng bằng như cho không bả, lấy gì ra mà hồi. Tao còn sợ mang tiền đi mua gạo cho sấp nhỏ, mua rượu cho thằng chồng rồi thì toi cái lưới luôn.
Dì Tám là người dư dả nhất ở cái xòm chài nghèo nàn này, lại xởi lởi luôn sẵn lòng giúp đỡ nên được mọi người quý trọng lắm. Bà má Bảy Quyên mang tiền về không mua gạo không mua rượu mà đi sắm lưới thiệt. Bả ôm lưới về buổi chiều, đám nhỏ nhà bà nhảy tưng tưng theo sau la hét cười nói, tới buổi tối bà bơi xuồng vô đìa giăng luôn. Sáng ra gỡ được gần chục ký cá, bả quăng vô nhà dì Tám con cá bông bự nhất, đứng dưới xuồng hét lên:
- Dì Tám coi nè, dì cầm con cá bông mà nấu canh chua đi.
Ai thấy vậy cũng mừng, nhưng tới ngày thứ hai, mới tinh mơ sáng đã nghe tiếng bả than khóc, xúm lại hỏi mới biết trộm đã lấy mất lưới của bả. Bả vừa quệt nước mắt vừa sụt sịt nói:
- Cô bác ơi sao tôi xui xẻo quá vậy. Cái lưới mới tinh dì Tám vừa đỡ cho mua ai dè nó trộm mất rồi, giờ tôi biết làm sao đây.
Bà Mười chen vô hỏi:
- Thím giăng ở đâu mà trộm lấy được?
- Tôi giăng trên đìa đó.
- Trên đìa thì toàn người xóm mình giăng lưới, làm chi có người lạ nào vô?
- Mất lưới là mất lưới, tôi đâu có biết trộm lạ hay quen.
Chuyện bà má Bảy Quyên bị mất lưới làm cả xóm bàn tán xôn xao. Tới chiều tối bà má Bảy Quyên tìm ông bà Mười biểu:
- Tôi nghi ngờ quá thím Mười.
Bà Mười mời bà má Bảy Quyên miếng trầu rồi hỏi:
- Thím nghi cho ai, người xóm chài mình hay người ở sóc Miên?
Bà má Bảy Quyên nhai nát miếng trầu, ghé vô tai mà Mười nói nhỏ nhưng tôi và Gấm đứng kế bên đều nghe thấy.
- Tôi nghi ngờ thằng Bảy Hoách quá thím Mười. Bữa tôi vô sóc mua lưới có gặp thằng chả, nó còn hỏi tôi lấy đâu ra tiền mà sắm lưới. Tới hồi hôm tôi đi giăng lưới, cả đìa chỉ thấy có một mình hắn.
- Bảy Hoách à? Là Bảy Hoách thì hắn làm được việc đó lắm.
- Thím Mười à, từ sớm tới giờ hắn cứ bơi qua bơi lại nhà tôi hoài, thế mới đáng nghi chớ. Nghi ngờ vậy mà không biết làm thế nào, cứ phải chịu đau xót sao!
Ông Mười đang ngồi nghe chuyện liền đứng bật dậy, nói oang oang:
- Để tao gọi Bảy Hoách hỏi thẳng vô mặt hắn coi.
Ông Mười nói vậy làm vậy. Ông tới cà phê dì Tám ngồi đợi vì ông biết thế nào Bảy Hoách cũng tới. Dì Tám thấy ông Mười xuất hiện với nét mặt đăm đăm thì lấy làm lạ lắm, hỏi:
- Chú Mười, có chuyện gì mà bữa nay chú lại qua con? Cái Nhung mang cà phê đá ra mời ông Mười đi.
Tôi pha cà phê đá mang tới, ông gạt đi, biểu:
- Tao không tới uống cà phê, tao đợi thằng Bảy Hoách.
- Có chuyện gì với hắn à chú?
- Để tao hỏi vô mặt nó vụ cái lưới của má con Bảy Quyên.
- Ủa, nó trộm sao?
- Dễ là nó lắm.
- Thằng chả bằm trợn, gây gổ, nay lại còn đổ sang trộm cắp nữa!
Đang nhắc tới Bảy Hoách thì hắn tới liền. Hắn ngó thấy ông Mười ở đó thì ngán luôn, xịch vô một xó ngồi im thít, không kêu rượu không kêu đồ nhậu. Ông Mười nhìn hắn chằm chằm, nói như quát:
- Thằng Bảy, qua đây ngồi với tao.
Đụng vô cái nhìn tức giận của ông Mười, Bảy Hoách không dám ngước mặt lên, ngoan ngoãn nghe lời qua ngồi kế bên ông. Ông Mười gọi một xị, rót vô hai ly, đưa hắn một ly. Mũi hắn hơi chun lại khi hít thấy mùi rượu quen thuộc, mùi rượu như làm hắn bớt ngán ông Mười, hắn ngẩng lên hỏi:
- Chú đãi tôi sao chú Mười?
- Uống đi rồi nói tao biết mày có dính vô vụ trộm lưới của má con Quyên không?
Bảy Hoách đỡ ly rượu đưa lên mũi hít hít trước khi làm một tợp. Hắn nhăn nhở:
- Tôi không có dính vô vụ đó. Chú biết tôi rồi chú Mười, tôi là người tử tế, chăm chỉ làm ăn, đâu có dính vô mấy chuyện bê bối đó.
- Vo Tiêu này không ai không biết mày là người thế nào.
- Chú nói phải đó, mọi người đều biết Bảy Hoách là người tử tế, mắc mỗi chuyện họa huần có say xỉn chút xíu, mà lúc say xỉn thì lại thích… dê dê… Chú đãi tôi ly nữa đi.
Chú Mười rót đầy ly cho hắn:  
- Mày dính vô thì mau tìm cách trả cho người ta, tao mà biết chắc là mày thì tao bẻ răng mày ra đó nghe Bảy.
- Chú có cách chi biết chắc thì làm đi, chú nghi oan cho tôi quá hà. Trên đường tới đây tôi nghe con mụ ấy lu loa cho tôi, tôi muốn cho nó một vả rụng răng nhưng thương nó nên thôi. Oan tôi quá!
Dì Tám đứng nghe câu chuyện từ nãy tới giờ liền nói chen vô:
- Chú Mười, con biết cách. Đi coi bói người ta nói trúng được đứa nào trộm cho coi.
Rượu đã làm cho Bảy Hoách nóng lên, hắn ngước nhìn dì Tám:
- Rồi tới Tám cũng nghi cho anh nữa thì sao anh còn chịu đựng nổi.
Ông Mười biểu dì Tám:
- Coi bói ở đâu?
- Vô sóc Miên.
- Tao có nghe, vậy mình vô sóc.
- Chú không coi được đâu chú Mười, phải con gái chưa chồng người ta mới coi cho.
- Bói gì kỳ vậy!
- Thiêng lắm, nhiều người đi coi lắm. Để biểu con Nhung đi là được.
Bảy Hoách ngồi nghe, im lặng, rồi bất thình lình đứng lên bỏ đi, không chào hỏi ai. Dì Tám thở phào nhìn theo, bĩu môi như muốn tống khứ hắn đi cho nhanh. Dì nói:
- May quá có chú chớ không hắn quậy tới khuya luôn à.
Ngay lập tức dì Tám kêu má Bảy Quyên và tôi vô sóc, đi được một quãng quay lại thấy Bảy Hoách bơi xuồng theo. Má Bảy Quyên biểu:
- Mặc kệ cho hắn theo, hắn nghe nói coi bói ra kẻ trộm là hoảng rồi đó.
Nhờ hai đứa trẻ con Campuchia dẫn đường, chúng tôi đi qua những vườn xoài âm u trước khi tới một ngôi nhà sàn cũ kỹ đen đúa. Một con chó trắng nằm cạnh cột nhà lim dim, thấy người lạ thì ngẩng lên gừ gừ rồi cúp đuôi lững thững bỏ ra vườn. Hai đứa trẻ con dừng lại ngoài cổng, chúng nói chúng không dám vô, sợ lắm. Dì Tám móc túi lấy mấy cắc tiền lẻ cho chúng, chúng vui vẻ biểu sẽ đợi chúng tôi để dẫn trở về. Bà má Bảy Quyên coi vậy mà còn nhát hơn cả tôi, bả cứ bám vô vai tôi rồi đẩy tôi đi trước. Lên tới gác thấy một người đàn ông để trần, quấn xà rông phía dưới, tóc bạc trắng nhưng coi ông ta còn lực lưỡng khỏe mạnh lắm. Chúng tôi còn đang đứng ở cửa thì ông ta đã nói:
- Vô trong này đi, tới coi cái gì?
Chúng tôi du đẩy nhau đi tới. Dì Tám nói:
- Coi cho người mất trộm lưới.
- Ở đâu tới?
- Xóm chài.
- Duôn à?
- Phải.
- Tôi cũng không phải người Miên, tôi là người Tàu. Tới coi cái gì?
Kỳ vậy đó, thày bói người Tàu đã hỏi câu này một lần rồi mà quên ngay được sao. Dì Tám kiên nhẫn trả lời lại. Thày Tàu nhìn kỹ chúng tôi một lượt rồi hỏi:
- Ba người ai là gái?
Dì Tám đẩy tôi tới. Thầy biểu tôi xuống vại nước lấy lên hai bát nước đầy, để hai bát nước xuống rồi soi vô. Thày Tàu hỏi:
- Soi vô chưa, thấy gì không?
Tôi soi vô mà không thấy gì.
- Nhắm mắt lại, nhắm chặt mắt lại. Thấy gì không?
Vẫn không thấy gì nhưng trong đầu tôi đang nghĩ đến Bảy Hoách.
- Nó không phải người ở xóm chài?
Bảy Hoách là người xóm chài, tôi nói không biết. Thày Tàu lại hỏi:
- Nó là người xóm chài, mọi người đây đều biết nó?
Chúng tôi đều biết Bảy Hoách.
- Nó là liền ông? Nó thường hay ở trần, mặc quần đùi bơi xuồng?
Thày Tàu cứ hỏi tôi dồn dập như vậy, mồ hôi tôi vã ra, tôi càng nhắm mắt thì càng nhìn rõ Bảy Hoách, đúng là hắn hay ở trần, mặc quần xà lỏn bơi xuồng, hay nhậu và nhăn nhở dê dì Tám. Bất thình lình thày Tàu chộp tay lên hai vai tôi khiến tôi giật thót mình, kéo tôi đứng lên, xoay tôi lại sát vô thày, hỏi vô mặt tôi:
- Nó là…
Thày tiếp tục ghì lấy hai vai tôi, cố gắng kéo tôi sát vô người thày, tôi không tài nào chịu nổi hơi thối từ miệng thày phả ra, hoảng hốt hét lên:
- Nó là Bảy Hoách.
Thày Tàu đẩy tôi ra, suýt ngã ngửa xuống sàn.
- Đấy, xong rồi. Bỏ hai riên vô đây.
Dì Tám bỏ hai riên vô cái rổ bạc đã xuống màu xám ngoét, chúng tôi vội vã xuống thang còn thày Tàu lại bình thản ngồi quạt. Bà má Bảy Quyên nhanh chóng kể cho cả xóm nghe chuyện coi bói, hai bát nước thành hai cái chậu nước, hai bàn tay thầy Tàu móng dài ngoẵng bấu riết lấy con Nhung, đến khi hồn nhập thì con Nhung lăn đùng ngã ra sàn, mồm sủi bọt, liên tiếp kêu tên Bảy Hoách. Sáng sớm hôm sau tôi đã nghe có người gọi eo éo:
- Má con Quyên ra mà coi có phải lưới của bà không nè, tôi thấy cái lưới nằm trên bờ đìa đây nè.
Chú Tư cười hơ hớ chọc tôi:
- Con Nhung giờ thêm nghề coi bói ra kẻ trộm, chú sợ thiệt rồi đó.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét