Thứ Hai, 16 tháng 1, 2012

BA GIAI ĐIỆU RỪNG TÔN VINH CON RỒNG NƯỚC

Dưới đây là bài của tác giả Nguyễn Dương Liên, Việt kiều ở Ý, viết riêng cho Lều văn Thăng Sắc để in vào ngày 23 tháng Chạp là ngày ông Công ông Táo chầu Trời. Bài viết thấm đẫm những tình cảm nhớ thương của một người Việt xa quê trong những ngày giáp Tết, những hồi tưởng bằng thơ bằng nhạc về một thời trẻ trung và đặc biệt là những tình cảm thân thương chân thành đối với bạn bè trong nước dù mới quen nhau qua mạng như lời tác giả nói với Lều văn.
Xin trân trọng giới thiệu nguyên văn bài viết này.

Ngày 23 tháng giêng năm 2012, chúng ta sẽ bước vào năm con Rồng nước . Con rồng ta không giống con rồng tây, vì người Tây coi con rồng họ như một biểu tượng của cái ác như trong trường hợp của con rồng bị đánh bại bởi thánh Georges, thánh bổn mạng của Anh-Quốc. Con rồng ta được tôn kính trong giới Việt-Trung vì nó đem ích-lợi cho nhân loài , vì nó tập hợp trong vũ trụ, lửa và nước, trời và đất . Nó là sức mạnh của thiên-nhiên , biết điều-khiển những hoặt động của con người, trên trái đất và trong bầu trời. Đó là một con rồng chuyên môn bảo vệ người, đồng thời là một trong những huyền thoại sáng lập các triều-đại Trung-Quốc và Việt-Nam. Ví dụ con Rồng An-Nam cua triều đại họ nhà Nguyễn tại Huế hoặc con Rồng Thăng-Long của Hà-Nội đã cất cánh trong năm 1010 trước đôi mắt của Hoàng-đế Lý-Thái-Tổ , hoặc con Rồng Vịnh Hạ-Long, con rồng đã thuần-hóa các dòng nước biển . Mặc dù những con rồng di chuyển trên trời và dưới đất hay trong các đại dương, khi tôi còn nhỏ , tôi luôn luôn tưởng tượng và mơ tới nơi xuất xứ của những con Rồng ta như những nơi không thể tiếp cận được, trong lòng của các ngọn núi hoặc trong hang động trong chiều sâu của những khu rừng không thể xuyên thủng vào được . Vì vậy, để vinh-danh và tôn kính con Rồng tốt lành của chúng ta, năm nay năm Nhâm-Thìn, năm con Rồng nước, nhân dịp ngày đổi mới của cuộc sống ta là Tết Nguyên-Đán , tôi muốn dành ba câu chuyện ngắn đời tôi liên-quan đến các khu rừng, tôn vinh con Rồng ta với ba giai-điệu rừng : 
I . " Chiều trong rừng thẳm " (nhạc kháng chiến)
II . " Nhớ Rừng " (ngâm thơ)
III . " Mưa rừng" (nhạc cải-lương)
Tôi hân-hnh báo cho bà con ta trong Nước rng năm 2012 Nhâm-Thìn đã bđầu mt cách đáng vui mng cho bà con ta tÝ : đa con sanh ra đầu tiên toàn sứ Ý ,vài giây sau 24 giờ là mt con gái bé tên là Sofia (tên y như tên mẹ Đcủa tôđã mất vào Tết năm 1962 thọ 50 tui ) , cha Ý và mẹ Vit-Nam . Bé Sofia sanh ti bnh-vin San Filippo Neri, ti Roma, không xa nhà tôi , phía tây-bc của th-đô Ông tnh-trưng Roma Gianni Alemanno có đền bnh-viđể mng cùng cha m và có đem quà .
-------------------------------------------------------------------------------------------------
I . " Chiều trong rừng thẳm " 
Trong mùa thu năm 1965 (hồi đó chúng tôi 23 tu
i), người sanh-đôi của tôi, Ernest Nguyễn-Dương-Văn (hin thi anh sng và đã lp gia-đình tại Tokyo, Nh
t-B
n), trong khi anh y đã vào năm thứ 2 kiến-trúc tại Đại-Hoc Roma, anh Ernest Văn đã thành lập một nhóm nhạc mà anh đã
đ
t cái tên là "The Nations" vì nhóm nhạc này gồm 5 chàng trai đến từ quốc gia khác nhau. Có hai người Ý, Rodolfo và Paolo, một anh Thổ Nhĩ Kỳ Nur Borek, một trai Pháp-Ý Riccardo Cocciante (sanh t
i Sài-Gòn, bố Ý mẹ Pháp) và cui cùng anh Ernest Văn, cha Việt-Nam, ông Nguyễn-Dương-Đôngiáo-sư toán t
i tr
ườ
ng Quc-Hc Huế nhng năm 1939-1946 và mẹ Đc-Quc, bà Sophie Mohr . Năm tràng trai này va hc va đi kiếm tiền túi vi nh
ó
m nhc "The Nations" trong nhng night-club Roma ho
c nhng bui d-h
của 
nh
ng gia-
đ
ì
nh giàu có t
i Roma. The Nations ho
t-
đ
ng t
i Roma từ 1965 cho ti ngày tan rã trong nam 1969. Chỉ mình anh Riccardo Cocciante đã tiếp tc trong ngành
â
m-nh
c và đã thành công ln lao, trở thành m
t nhà son nhc và ca-s
ĩ
 ni tiếng kh
p th
ế
-gi
i (
Ý
, Ph
á
p, T
â
y-ban-nha, m
 La-tinh).
Trong cái website 
của
 anh Ernest Văn, người đ
c-gi
 có thể xem các hình ảnh của nh
ó
m-nhc "The Nations" , trong nh
ng năm bướđầu t
i Roma trong ngành
â
m-nh
của
 Riccardo Cocciante. http://home.att.ne.jp/orange/ita/index.htm

Tết n
ă
m ngo
á
i 2011, tôi có dn Riccardo Cocciante
đ
i d Tết t
i toà
đ
i-s
 Vi
t-Nam t
i Roma và t
ô
i đã gi
i-thi
u anh y cho anh
Đ
i-s
 Đặng-Khánh-Thoại Cùng anh ch
ị 
em rut , Riccardo sanh t
i Sài-Gòn và trước hi-h
ươ
ng t
i Roma vào n
ă
m 1957,
đ
ng-th
i năm
đ
ó anh Ernest Văn và tôđã theo thân-ph ch
ú
ng t
ô
i
đ
i Roma làm 
Đ
i-s
,
 gia-
đ
inh Cocciante sng t
i Sài-Gòn, ngay t
i qu
ng-trường con Rùa , gi


a
đ
ườ
ng Duy-T
â
n cũ và nhà thờ Đc-Bà. Ernest Văn và t
ô
i đã quen gia-
đ
ì
nh Cocciante t
i Roma từ nh
ng n
ă
m
đ
ó. Đ giải thích lý-do ti vì sao t
ô
gi
i-thi
u bài ca kháng-chi
ế
n chng th
c-d
â
n , "Chiều trong rừng thẳm ", t
ô
i xin kể m
t chuyđã xy ra t
i nhà tôi vào cuối m
t bữa ăn tối, vào tháng 4 năm 2011 . Sau bữa ăn tốit
ô
đã
 mi Riccardo Cocciante và bà x
ã
 
người
 Ph
á
p Catherine ngồi trước lò sưởi nhà tôi và lúc khi bàn nhau về những kỷ niệm xưa t
i Sài-Gòn tr
ước
 n
ă
m 1957, vi tôi rất quan tâm đến
â
m-nhạc Việt-Nam, tôi đã hỏi Riccardo nếu anh vẫn còn nhớ m
t bài hát Việt-Nam nào không . Anh Riccardo hát rt rõ với vài danh-từ tiếng Việt anh còn nh khi còn nh, (anh kh
ô
ng biết n
ó
i tiếng Vi
t) : "Cô Mười cô Chín, hai cô anh muốn cô nào ? " . Khi anh Riccardo ca giai-
đ
i
u này, bt th
ì
nh l
ì
nh t


ô

i nghe li
đ
ượ

c m

giai-
đ
i

mà t
ô
i chưa tng nghe na từ nhng n
ă

m t
ô
i còn sng t

i Sài-Gòn, nghiã là t
 hơn một nửa thế kỷ, m


t
đ
i


đã
đ
em l
i trong lòng t
ô
i bao nhi
ê


u k


-ni


của


 th
i


u-th
ơ


của


 t
ô
i . M


t giai-
đ
i


u mà t
ô
i
đã 
quen thu
c x
ư
a nay t


i Sài-Gòn nh
ư
ng mà t
ô
i
đ
ã


 kh
ô
ng bi
ế


t t
i l
i l
 g
ì
 c
ả trong thi
đ
ó
, th
m-ch
í
 ngu
n g
c và t
á
c-gia 
của


 bài ca.  


Sau đó l
ú
c tôi hỏi vợ tôi nếu bà cũng biết bài ca
đ
ó hay kh
ô
ng
, bà m
i hát cho tôi toàn c
â
u "Cô Mười cô Chín, hai cô anh muốn cô nào ?  Muốn dắt cô đi đừng cho má cô hay ...". Ba 
người

bà x
ã

 t
ô

i, Riccardo và t
ô

i, v

a
đá

nh nh

p v

i cành c

i lò 
sưởi

 , ch
ú

ng t
ô

i vui-v

 ca l

i m

t giai-
đ

i

u ch
ú

ng t
ô

đã

 l
ã

ng qu
ê

n t

 h
ơ

n n

a th
ế

-k

 t

i Sài-Gòn. V

ài ngày sau
đ
ó

 , tôi đã l
ê

n m

ng Google để nghiên cứu ri
ê

ng v

 nh

ng l

i ca n
ó

i trên và t
ô

i
đ
ã

 thành c
ô

ng ph
á

t hi

n
đ
ượ

c l

i và ngu

n g

c c
ù

ng t
á

c-gi

 th

t
của

 bài ca
đ
ó

 , nh

ng k
ế

t-qu

của



 cu


nghiên cứu 

này, t
ô

i
đã gửi 

li

n qua mail cho anh Riccardo Cocciante bi
ế

t và t
ô

i xin tr
ì

nh-bày nh

ng phát hiện
đ

c-bi

t
đ
ó

 cho 
quý 
đ

c-gi

 L

u V
ă

n Th
ă

ng S

c . 




Ông bà Nguyễn Dương Liên chụp ảnh với Đại sứ Việt Nam tại Ý Đặng Khánh Thoại

                                                
Bài hát này được sáng tác năm 1945 (trong thi kháng-chiến chống thực dân) do nhà son-nhc Việt-Anh, tên tht là Trần-Văn-Trọng, (1927-2008), quê tỉnh Kiên-Giang t
i Nam-B
 , có cng Rạch Giá. Nhưng nhng li mà anh Riccardo và bà xã t
ô
đã ca không phi là li ch
í
nh-th
của
 bài ca mà là do m
t t
á
c-gi
 dân-gian nào
đ
ó đã ghép vào giai-
đ
i
của
 bn ca ch
í
nh-thc có tiêu đề là :  "Chiều trong rừng thẳm" 
của
 nh
c-s
ĩ
 Anh-Vi
t đã son vào n
ă
m 1945, thi kháng-chiến chống thực dân.T
ô
i cho biết thêm vài chi tiết khác về giai-đi
u này . Trong những năm 50, trước 1954, giai điệu này đã được s-d
ng như m
t bài ca để khai-m
c ch
ươ
ng-tr
ì
nh Pháp-Châu Á (Radio France Asie) vì chúng ta vẫn còn trong thi Pháp thuc.
Tất nhiên không còn li kháng-chi
ế
n na mà với các từ khác kêu gọi ti mùa xuân và hòa bình. Tiêu-đề đã bị đđi không bi
ế
t do ai , cùng nh
ng li kháđã ghép vào giai-
đ
i
u . Đó là "Nhc thanh-bình" , vi nh
ng li : " Đây ngày tươi sáng muôn chim ca hót tưng bừng,Tắm ánh nắng mai ngàn hoa thắm tươi ".  
Sau 1954,
ô
ng Anh-Việt đã trở lại miền Nam sau hiệp định Geneva mùa hè năm 1954 và
ô
ng đã gia-nhp vào quân đội qu
c-gia
của
 Việt-Nam Cộng-Hòa lên cp
đ
i-tá . Sau 30 tháng tư 1975, ông rời Việt-Nam tị nạn t
i Hoa-Kỳ , sống lâu n
ă
m tai California.
Ô
ng qua đời ngày 15 tháng 3 năm 2008, th
 81 tu
i t
i thành-ph
 San José, California . Anh-Việt cũng đã sáng tác vào n
ă
m 1946, một bài ca tôi r
t thích  "Bến cũ " , đặc biệt v
i gi
ng
m
của
 ca-s
ĩ
 S
ĩ
-Ph
ú
 
( Bến ấy ngày xưa người đi vấn vương biệt ly , Gió cuốn muôn phương về đây, thấy bóng người về hay chăng?  Xa nhau bến xưa ngày ấy , Anh đi thế thôi từ đây , Sầu chết bên lòng , Hồn nặng nhớ mong )
Tôi xin giới-thiệu cả bản dịch của tôi ra tiếng Pháp của bài ca kháng-chiến. Phát-hien lại lời chính thức của bài ca này, tôi hy-vọng đem lại trên mạng và trong dư-luận nguoi Việt một chút công-lý và danh-dự cho nhà soạn nhạc Anh-Việt , một người đã có công chiến-dấu trong hàng ngũ người Việt kháng-chiến, không phân-biệt ai cả, trong công cuộc thiêng-liêng giải-phóng quê-hương đối với thực dân . 

" Chiều trong rừng thẳm " (1945)
Trong rừng xa vắng âm u nhuộm ánh dương mờ......Dans la jungle silencieuse et claire obscure
Tiếng gió rít lên ngàn cây xác xơ .............................le vent souffle sur les cimes des arbres .
Chuông chùa vang nhắc ngân lên …..........................Le gong de la pagode résonne au lointain
như những oan hồn....................................................en mémoire des âmes disparues .
Rừng con mang hận mãi trong hoàng hôn ................La jungle, en ce couchant, retient encore
                                                                                   en son coeur sa colère .
Mây nặng u hoài ........................................................Les nuages s' amoncellent épais et sombres .
Thây ngập bên rừng tiếng dế hòa bi ai …..................A l' orée de la jungle vibrent les chants des grillons
                                                                                    tels des lamentations
Đây là nấm mồ ...........................................................en provenance des tombes 
Bao nhiêu quân Nam hy sinh vì quốc dân …..............de tant de jeunes morts pour la patrie.
Bao ngày chinh chiến nơi đây nhuộm máu anh tài....Tant de jours de combats avaient rougi ces lieux
                                                                                     du sang des héros
Dấu vết vẫn ghi nghìn năm chẳng phai..........................et les traces y sont inscrustées pour mille ans, indélébiles.
Muôn cờ tươi thắm trong sương gợi chí tang bồng.......Le drapeau flotte éternellement au gré de la rosée 
                                                                                        incitant au courage                                                                                                                                                                                                              
Rừng chiều như vọng tiếng gọi thù xưa..........................La nuit semble gronder de l' appel à l' ancienne rancune
Mau cùng nhau tiến ........................................................Vite, partons de l' avant
Không sờn nguy biến ......................................................Ne craignons aucun danger
Quyết cố đấu tranh ..........................................................déterminés dans notre lutte
Dưới ngàn núi rừng .........................................................sous des milliers de monts
Trong nắng tưng bừng ....................................................dans le soleil et l' allégresse ,
Quốc dân chờ mong.....................................................car la patrie repose en nous ses espérances .

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

II . " Nhớ Rừng "  
Vào năm 1954, như một món quà sinh-nhật , cha tôi đã cho chúng tôi một khẩu súng hơi Diana .Sau 1954, lúc đi nghỉ mát tại Đà-Lạt, chúng tôi đem theo cái súng hơi đó để đi săn chim .Chính tại Đà Lạt, tôi đã đi thăm rừng trong ngày khi ông Ngô-Đình-Nhu đã mời gia-dình chúng tôi cùng vài nhân-vật Sài-Gòn đi tham-gia một bữa tiệc săn bắn nai vào rừng sâu, cạnh tháp Pongour, 50 cây số miền nam Đà-Lạt. 
Tôi còn nhớ rất rõ ngày hôm đó vì lúc đoàn xe-hơi tới khu rừng gần tháp Pongour, ngay lập tức bên cạnh căn cứ người săn, tôi đã phiêu lưu bỏ cái căn cứ đó để đi một mình thăm tháp Pongour. Trong tuổi ngây-thơ 14, tôi đã đem theo cái súng hơi Diana hy-vọng bảo vệ thân mình đối với hổ và lúc tới tháp, tôi đã có một tầm nhìn tuyệt-đẹp của thiên nhiên .Tháp Pongour khá cao có mấy tần đá và dưới tháp có một hồ nước yên lặng và rất tươi mát. Tôi cởi quần áo trên một tảng đá rồi tôi bơi như một con cọp, lượn tấm thân trong nước ấm mát, bơi qua bơi lại tung-hoành hống-hách từ những tảng đá . Đây là một trong buổi tắm đẹp nhất trong cuộc sống của tôi, không thể nào quên được, giữa một môi trường chưa từng bị ô nhiễm bởi người . 
Dù tôi đã học trường Pháp từ nhỏ, sanh tại Huế ngày 15/03 năm 1943 và lớn lên tại Việt-Nam tới tuổi 14, tôi không bao giờ quên học tiếng Việt tự mình .Trong tuổi 20, tại Roma, tôi đã quyết định nghiêm-trọng đọc cho suốt đời cuốn sách văn-học Việt-Nam của ông Dương-Quảng-Hàm và sách Việt-Nam sử-lược của ông Trần-Trọng-Kim .Tôi sử dụng rất đều cái từ điển Pháp-Việt và Việt-Pháp mà giáo-sư Đào-Đăng-Vỹ đã tặng trong năm 1957 cho thân-phụ tôi khi ông làm bộ-truong giáo-dục trước khi ông rời Sài-Gòn đi Roma vào cuối năm đó. Chính trong tập-sách của ông Dương-Quảng-Hàm, trong chương nói về nhóm Tự-lực văn-đoàn, tôi đã rất vui mừng phát hiện ra lần đầu tiên trong đời tôi, bài thơ sôi động của nhà thơ Thế-Lữ viết vào năm 1936 , bài thơ "Nhớ rừng"(Lời con hổ ở vườn bách thú).
Tôi đã đọc hàng trăm lần bài thơ tuyệt vời này, không bao giờ cảm thấy mệt mỏi hoặc chán nản vi nó thật là anh dũng và oai nghiêm .Trước bước vào thềm năm Nhâm-Thìn và thềm 70 mùa xuân của tôi, tôi mời độc giả Lều-văn Thăng Sắc một lần nữa cùng tôi nghe bài thơ này qua diễn ngâm-thơ với âm nhạc truyền-thống Việt-Nam của Giáo-sư Trần-Văn-Khê. Đồng thời , tôi xin khiêm nhường giới-thiệu bản-dịch của tôi ra tiếng Pháp của bài thơ đó :

" Nhớ rừng "
(Lời con hổ ở vườn bách thú) cua Thế-Lữ ( 1936)
" L' appel de la jungle " (Complainte d' un tigre en cage)

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt ….....Derrière ces barreaux de fer , rongeant ma haine,
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua ,..me voici désormais allongé, livré à l' ennui des jours
qui passent ,
Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ.........ignorant ces visiteurs arrogants et curieux ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm...venus fixer leurs yeux mesquins sur mon ancienne majesté.
Nay sa cơ bị nhọc nhằn tù hãm......................Me voici désormais réduit en captivité ,
Để làm trò lạ mắt thứ đồ chơi,...................objet de curiosité, vil jeu de montreur de bêtes ,
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi..........à l' instar de cette bande d' ours ridicules , 
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.............de ce couple de panthères abruties qui m' avoisinent .
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ..................Je ne cesse de vivre dans le regret et le souvenir
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa,........des temps qui me virent vaguer libre et fort ,
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già.....dans la nostalgie des montagnes et des forêts aux ombres
profondes d' arbres anciens .
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,.......Humant le vent rebelle , à l' écoute des torrents lointains
Với khi hát khúc trường ca dữ dội,...........................annonçant ma venue par mon cri rauque et menaçant ,
Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng,.............je frayais calmement mon chemin au travers des sentiers
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,...........et mon corps félin ondulait harmonieux
Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc …....................parmi les ombres des feuilles à épines, des herbes tranchantes.
Trong hang tối mắt thần khi đã quắc...............Dans les sombres cavernes, quand j' entrouvrais mes yeux
Là khiến cho mọi vật đều im hơi,.................................................les hordes d' autres bêtes se taisaient .
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài..............................................J'étais le seigneur de toutes ces créatures,
Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi.................en cet univers d' arbres,de fleurs inconnus et anciens .
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối..................Où retrouver la clarté des nuits de lune auprès des sources
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan,.........................quand je me perdais en leurs reflets d' argent ?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn.......Où désormais revivre ces jours d' averses sur la forêt en émoi
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới,...........................quand je restais là à contempler le renouveau de la nature ? 
Đâu những buổi bình minh cây xanh nắng gội,..............Où assister à ces matins aux arbres dorés de soleil 
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng.........................................quand les chants des oiseaux gaiement
me tiraient du sommeil ?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng..............Où désormais revoir ces couchants écarlates embrasant la forêt
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt........................quand s' estompant, les flammes du soleil me cédaient le pas, 
Để ta chiếm riêng phần vùng bí mật.................afin de me laisser seul maître en ces lieux mystérieux ?
Than ôi ! thời oanh liệt nay còn đâu!......Qu' est il donc advenu de l' ombre de cette gloire d' antan qui fut la mienne ?
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,.................Désormais je couve en mon être une rage sans fin
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,.............abhorant la monotonie de cette vie qui s' écoule en vain,
Những cảnh sửa sang tầm thường giả dối,.......................ces paysages de pacotille, vulgaires et faux ,
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng......ces fleurs soignées, cette herbe taillée, ces allées bien tracées, ces arbres plantés
Giải nước đen giả suối chẳng thông giòng......et cette eau noirâtre qui simule une source sans embouchure
Len dưới lách những mô gò thấp kém,.........................s'écoule sous des tertres bosselés et bien bas .
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm..........................Et ces feuillages inoffensifs ne cachant nul péril 
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu.....................prétendent rivaliser avec les immensités
Của chốn ngàn năm cao cả âm u..........................des contrées sauvages et obscures .
Hỡi oai linh cảnh nước non  hùng vĩ,...................Ô puissance divine, majestueuse vision des eaux 
Là nơi giống Hùm thiêng ta ngự trị,.................que furent le règne des tigres sacrés que nous fûmes 
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,............lieux d' errance qui virent nos vifs ébats de jadis
Nơi ta không còn được thấy bao giờ !...............et que nous ne reverront jamais plus !
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,......Mais qui sait qu' un de ces jours de lassitude ,
Ta đang theo giấc mộng ngàn to lớn.................ne m' abandonnerais je point au rêve immense ,
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi.......délivrance de mon âme s'élançant de nouveau vers vous ,
Hỡi rừng xanh kiêu hãnh của ta ơi !.............Ô fantastiques jungles sans fin qui étiez mon domaine !

Giáo-sư Trần-Văn-Khê din ngâm-thơ bài thơ " Nhớ Rừng "   

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
III. "Mưa rừng"  ca-sĩ Thanh-Nga (1942-1978).
Đ
â
y là bài ca chiết xuất từ cải lương cùng tên, được viết bởi hai tác-giả Hà-Triều và Hoa Phượng . Tôi r
t thích ging ca
của
 nữ hoàng vĩ đại của cải-lương , bà Juliette Thanh-Nga. Trong video này , có những lời của bài hát "Mưa rừng" .Toi xin gi
i-thi
u ph
n d
ch ra ti
ế
ng Ph
á
p
của
 t
ô
i . Tôi đã kể lại cuộc g
p-g
 của tôi với bà Thanh-Nga, trước Tết năm 1978 tại Sài-Gòn trong bài viết b
ng ti
ế
ng Ph
á
p "N
ng Chi
u et Rose de Chine", 
bài t
ô
i
đã
 vi
ế
t cho b
á
o Good Morning, b
á
o on-line c
ủa
 c
u h
c-trò lycée Ph
á
p t
i Sài-Gòn, Chasseloup-Laubat/Jean-Jacques Rousseau đã đi tên thành Lê-Quý-Đôn và còn giữ t
ê
n này ti giờ nay .
" Mưa rừng" .........................................Pluies de la jungle 
Mưa rừng ơi mưa rừng.......................Ô pluies de la jungle, sans cesse vos gouttes 
Hạt mưa nhớ ai mưa triền miên..........me remmènent au souvenir de mon bien aimé .
Phải chăng mưa buồn vì tình đời.......Il pleut sur la jungle comme il pleut dans mon coeur
Mưa sầu vì lòng người........................et ce chagrin se déverse en mon âme 
Duyên kiếp không lâu..........................car le charme qui nous liait avait disparu .
Mưa từ đâu mưa về.............................Ces averses d' où viennent elles 
Làm bao lá hoa rơi tả tơi.....................qui arrachent sans répit tant de feuilles et de fleurs ? 
Tiếng mưa gió lạnh lùng ngoài mành......La pluie et le vent frappent et agitent les volets, 
Lá vàng rời lìa cành...................................les feuilles mortes se détachent des branches,
Gợi ta nỗi niềm riêng.................................m'emportant au plus profond de mon âme .

Xin chúc quý độc giả Lều-Văn Thăng Sắc một năm mới Nhâm-thìn 2012 đầy sức-khoẻ, đầy hạnh-phúc và vạn sự như ý . 

Nguyễn-Dương-Liên 
Roma, Tết Nhâm-Thìn 2012




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét