Dưới đây là bài của tác giả Nguyễn Dương Liên, Việt kiều ở Ý, viết riêng cho Lều văn Thăng Sắc để in vào ngày 23 tháng Chạp là ngày ông Công ông Táo chầu Trời. Bài viết thấm đẫm những tình cảm nhớ thương của một người Việt xa quê trong những ngày giáp Tết, những hồi tưởng bằng thơ bằng nhạc về một thời trẻ trung và đặc biệt là những tình cảm thân thương chân thành đối với bạn bè trong nước dù mới quen nhau qua mạng như lời tác giả nói với Lều văn.
Xin trân trọng giới thiệu nguyên văn bài viết này.
Ngày 23 tháng giêng năm 2012, chúng ta sẽ bước vào năm con Rồng nước . Con rồng ta không giống con rồng tây, vì người Tây coi con rồng họ như một biểu tượng của cái ác như trong trường hợp của con rồng bị đánh bại bởi thánh Georges, thánh bổn mạng của Anh-Quốc. Con rồng ta được tôn kính trong giới Việt-Trung vì nó đem ích-lợi cho nhân loài , vì nó tập hợp trong vũ trụ, lửa và nước, trời và đất . Nó là sức mạnh của thiên-nhiên , biết điều-khiển những hoặt động của con người, trên trái đất và trong bầu trời. Đó là một con rồng chuyên môn bảo vệ người, đồng thời là một trong những huyền thoại sáng lập các triều-đại Trung-Quốc và Việt-Nam. Ví dụ con Rồng An-Nam cua triều đại họ nhà Nguyễn tại Huế hoặc con Rồng Thăng-Long của Hà-Nội đã cất cánh trong năm 1010 trước đôi mắt của Hoàng-đế Lý-Thái-Tổ , hoặc con Rồng Vịnh Hạ-Long, con rồng đã thuần-hóa các dòng nước biển . Mặc dù những con rồng di chuyển trên trời và dưới đất hay trong các đại dương, khi tôi còn nhỏ , tôi luôn luôn tưởng tượng và mơ tới nơi xuất xứ của những con Rồng ta như những nơi không thể tiếp cận được, trong lòng của các ngọn núi hoặc trong hang động trong chiều sâu của những khu rừng không thể xuyên thủng vào được . Vì vậy, để vinh-danh và tôn kính con Rồng tốt lành của chúng ta, năm nay năm Nhâm-Thìn, năm con Rồng nước, nhân dịp ngày đổi mới của cuộc sống ta là Tết Nguyên-Đán , tôi muốn dành ba câu chuyện ngắn đời tôi liên-quan đến các khu rừng, tôn vinh con Rồng ta với ba giai-điệu rừng :
I . " Chiều trong rừng thẳm " (nhạc kháng chiến)
II . " Nhớ Rừng " (ngâm thơ)
III . " Mưa rừng" (nhạc cải-lương)
Tôi hân-hạnh báo cho bà con ta trong Nước rằng năm 2012 Nhâm-Thìn đã bắt đầu một cách đáng vui mừng cho bà con ta tại Ý : đứa con sanh ra đầu tiên toàn sứ Ý ,vài giây sau 24 giờ là một con gái bé tên là Sofia (tên y như tên mẹ Đức của tôi đã mất vào Tết năm 1962 thọ 50 tuồi ) , cha Ý và mẹ Việt-Nam . Bé Sofia sanh tại bệnh-viện San Filippo Neri, tại Roma, không xa nhà tôi , phía tây-bắc của thủ-đô . Ông tỉnh-trưởng Roma Gianni Alemanno có đền bệnh-viện để mừng cùng cha mẹ và có đem quà .
------------------------------ ------------------------------ ------------------------------ -------
I . " Chiều trong rừng thẳm "
Trong mùa thu năm 1965 (hồi đó chúng tôi 23 tu
toán t
ổ
i), người sanh-đôi của tôi, Ernest Nguyễn-Dương-Văn (hiện thời anh sống và đã lập gia-đình tại Tokyo, Nhậ
t-Bả
n), trong khi anh ấy đã vào năm thứ 2 kiến-trúc tại Đại-Hoc Roma, anh Ernest Văn đã thành lập một nhóm nhạc mà anh đã đ
ặ
t cái tên là "The Nations" vì nhóm nhạc này gồm 5 chàng trai đến từ quốc gia khác nhau. Có hai người Ý, Rodolfo và Paolo, một anh Thổ Nhĩ Kỳ Nur Borek, một trai Pháp-Ý Riccardo Cocciante (sanh tạ
i Sài-Gòn, bố Ý mẹ Pháp) và cuối cùng anh Ernest Văn, cha Việt-Nam, ông Nguyễn-Dương-Đôn, giáo-sư ạ
i trườ
ng Quốc-Học Huế những năm 1939-1946 và mẹ Đức-Quốc, bà Sophie Mohr . Năm tràng trai này vừa học vừa đi kiếm tiền túi với nhó
m nhạc "The Nations" trong những night-club Roma hoặ
c những buổi dạ-hội của
nhữ
ng gia-đ
ì
nh giàu có tạ
i Roma. The Nations hoặ
t-đ
ộ
ng tạ
i Roma từ 1965 cho tới ngày tan rã trong nam 1969. Chỉ mình anh Riccardo Cocciante đã tiếp tục trong ngành â
m-nhạ
c và đã thành công lớn lao, trở thành mộ
t nhà soạn nhạc và ca-sĩ
nổi tiếng khắ
p thế
-giớ
i (Ý
, Phá
p, Tâ
y-ban-nha, mỹ
La-tinh).Trong cái website
jp/orange/ita/index.htm
của
anh Ernest Văn, người độ
c-giả
có thể xem các hình ảnh của nhó
m-nhạc "The Nations" , trong nhữ
ng năm bước đầu tạ
i Roma trong ngành â
m-nhạc của
Riccardo Cocciante. http://home.att.ne.Tết n
ã
ừ
đá
ị
ớ
ủ
sưởi
ú
ạ
ú
đã
ã
ê
ừ
ơ
ử
ê
ạ
ê
ề
ữ
ờ
ó
ô
á
ệ
ờ
ồ
ố
ù
ậ
ữ
đã gửi
ề
ế
ì
ữ
ệ
quý
ề
ă
ă
ắ
ă
m ngoá
i 2011, tôi có dẫn Riccardo Cocciante đ
i dự Tết tạ
i toà đ
ạ
i-sứ
Việ
t-Nam tạ
i Roma và tô
i đã giớ
i-thiệ
u anh ấy cho anh Đ
ạ
i-sứ
Đặng-Khánh-Thoại . Cùng anh chị
em ruột , Riccardo sanh tạ
i Sài-Gòn và trước hồi-hươ
ng tạ
i Roma vào nă
m 1957, đ
ồ
ng-thờ
i năm đ
ó anh Ernest Văn và tôi đã theo thân-phụ chú
ng tô
i đ
i Roma làm Đ
ạ
i-sứ,
gia-đ
inh Cocciante sống tạ
i Sài-Gòn, ngay tạ
i quả
ng-trường con Rùa , giữ
a
đ
ườ
ng Duy-Tâ
n cũ và nhà thờ Đức-Bà. Ernest Văn và tô
i đã quen gia-đ
ì
nh Cocciante tạ
i Roma từ nhữ
ng nă
m đ
ó. Để giải thích lý-do tại vì sao tô
i giớ
i-thiệ
u bài ca kháng-chiế
n chống thự
c-dâ
n , "Chiều trong rừng thẳm ", tô
i xin kể mộ
t chuyện đã xẩy ra tạ
i nhà tôi vào cuối mộ
t bữa ăn tối, vào tháng 4 năm 2011 . Sau bữa ăn tối, tô
i đã
mời Riccardo Cocciante và bà xã
người
Phá
p Catherine ngồi trước lò sưởi nhà tôi và lúc khi bàn nhau về những kỷ niệm xưa tạ
i Sài-Gòn trước
nă
m 1957, vi tôi rất quan tâm đến â
m-nhạc Việt-Nam, tôi đã hỏi Riccardo nếu anh vẫn còn nhớ mộ
t bài hát Việt-Nam nào không . Anh Riccardo hát rất rõ với vài danh-từ tiếng Việt anh còn nhớ khi còn nhỏ, (anh khô
ng biết nó
i tiếng Việ
t) : "Cô Mười cô Chín, hai cô anh muốn cô nào ? " . Khi anh Riccardo ca giai-đ
iệ
u này, bất thì
nh lì
nh tô
i nghe lại
đ
ượ
c m
ộ
t
giai-
đ
iệ
u mà t
ô
i chưa từng nghe nữa từ những nă
m t
ô
i còn sống tạ
i Sài-Gòn, nghiã là từ
hơn một nửa thế kỷ, m
ộ
t
đ
i
ề
u
đãđ
em l
ại trong lòng t
ôi bao nhi
ê
u k
ỷ
-ni
ệ
m
của
th
ời
ấ
u-th
ơ
của
t
ô
i . M
ộ
t giai-
đ
i
ệ
u mà t
ô
i
đã quen thu
ộc x
ưa nay t
ạ
i Sài-Gòn nh
ưng mà t
ô
i
đ
ã
kh
ô
ng bi
ế
t t
ới l
ời l
ẻ g
ì c
ả trong thời đ
ó, th
ậm-ch
í ngu
ồn g
ốc và t
ác-gia
của
bài ca.
Sau đó l
úc tôi hỏi vợ tôi nếu bà cũng biết bài ca
đ
ó hay khô
ng, bà m
ới hát cho tôi toàn c
âu "Cô Mười cô Chín, hai cô anh muốn cô nào ? Muốn dắt cô đi đừng cho má cô hay ...". Ba
người,
bà x
t
ô
i, Riccardo và t
ô
i, v
a
nh nh
p v
i cành c
i lò
, ch
ng t
ô
i vui-v
ẻ
ca l
i m
ộ
t giai-
đ
i
ệ
u ch
ng t
ô
i
l
ng qu
n t
h
n n
a th
ế
-k
ỷ
t
ạ
i Sài-Gòn. V
ài ngày sau
đ
ó , tôi đã l
n m
ng Google để nghiên cứu ri
ng v
nh
ng l
i ca n
i trên và t
ô
i
đ
ã
thành c
ng ph
t hi
n
đ
ượ
c l
i và ngu
n g
c c
ng t
á
c-gi
ả
th
t
của
bài ca
đ
ó , nh
ng k
ế
t-qu
ả
của
cu
ộ
c
nghiên cứu
này, t
ô
i
li
n qua mail cho anh Riccardo Cocciante bi
t và t
ô
i xin tr
nh-bày nh
ng phát hiện
đ
ạc-bi
t
đ
ó cho
đ
ộ
c-gi
ả
L
u V
n Th
ng S
c .
Ông bà Nguyễn Dương Liên chụp ảnh với Đại sứ Việt Nam tại Ý Đặng Khánh Thoại |
Bài hát này được sáng tác năm 1945 (trong thời kháng-chiến chống thực dân) do nhà soạn-nhạc Việt-Anh, tên thật là Trần-Văn-Trọng, (1927-2008), quê tỉnh Kiên-Giang t
ạ
i Nam-Bộ
, có cảng Rạch Giá. Nhưng những lời mà anh Riccardo và bà xã tô
i đã ca không phải là lời chí
nh-thức của
bài ca mà là do mộ
t tá
c-giả
dân-gian nào đ
ó đã ghép vào giai-đ
iệ
u của
bản ca chí
nh-thức có tiêu đề là : "Chiều trong rừng thẳm" của
nhạ
c-sĩ
Anh-Việ
t đã soạn vào nă
m 1945, thời kháng-chiến chống thực dân.Tô
i cho biết thêm vài chi tiết khác về giai-điệ
u này . Trong những năm 50, trước 1954, giai điệu này đã được sử-dụ
ng như mộ
t bài ca để khai-mạ
c chươ
ng-trì
nh Pháp-Châu Á (Radio France Asie) vì chúng ta vẫn còn trong thời Pháp thuộc.Tất nhiên không còn lời kháng-chi
ế
n nữa mà với các từ khác kêu gọi tới mùa xuân và hòa bình. Tiêu-đề đã bị đổi đi không biế
t do ai , cùng nhữ
ng lời khác đã ghép vào giai-đ
iệ
u . Đó là "Nhạc thanh-bình" , với nhữ
ng lời : " Đây ngày tươi sáng muôn chim ca hót tưng bừng,Tắm ánh nắng mai ngàn hoa thắm tươi ". Sau 1954,
( Bến ấy ngày xưa người đi vấn vương biệt ly , Gió cuốn muôn phương về đây, thấy bóng người về hay chăng? Xa nhau bến xưa ngày ấy , Anh đi thế thôi từ đây , Sầu chết bên lòng , Hồn nặng nhớ mong )ô
ng Anh-Việt đã trở lại miền Nam sau hiệp định Geneva mùa hè năm 1954 và ô
ng đã gia-nhập vào quân đội quố
c-gia của
Việt-Nam Cộng-Hòa lên cấp đ
ại-tá . Sau 30 tháng tư 1975, ông rời Việt-Nam tị nạn tạ
i Hoa-Kỳ , sống lâu nă
m tai California. Ô
ng qua đời ngày 15 tháng 3 năm 2008, thọ
81 tuổ
i tạ
i thành-phố
San José, California . Anh-Việt cũng đã sáng tác vào nă
m 1946, một bài ca tôi rấ
t thích "Bến cũ " , đặc biệt vớ
i giọ
ng ấ
m của
ca-sĩ
Sĩ
-Phú
: Tôi xin giới-thiệu cả bản dịch của tôi ra tiếng Pháp của bài ca kháng-chiến. Phát-hien lại lời chính thức của bài ca này, tôi hy-vọng đem lại trên mạng và trong dư-luận nguoi Việt một chút công-lý và danh-dự cho nhà soạn nhạc Anh-Việt , một người đã có công chiến-dấu trong hàng ngũ người Việt kháng-chiến, không phân-biệt ai cả, trong công cuộc thiêng-liêng giải-phóng quê-hương đối với thực dân .
" Chiều trong rừng thẳm " (1945)
Trong rừng xa vắng âm u nhuộm ánh dương mờ......Dans la jungle silencieuse et claire obscure
Tiếng gió rít lên ngàn cây xác xơ ............................. le vent souffle sur les cimes des arbres .
Chuông chùa vang nhắc ngân lên …..........................Le gong de la pagode résonne au lointain
như những oan hồn........................... .........................en mémoire des âmes disparues .
Rừng con mang hận mãi trong hoàng hôn ................La jungle, en ce couchant, retient encore
en son coeur sa colère .
Mây nặng u hoài .............................. ..........................Les nuages s' amoncellent épais et sombres .
Thây ngập bên rừng tiếng dế hòa bi ai …..................A l' orée de la jungle vibrent les chants des grillons
tels des lamentations
Đây là nấm mồ .............................. ............................. en provenance des tombes
Bao nhiêu quân Nam hy sinh vì quốc dân …..............de tant de jeunes morts pour la patrie.
Bao ngày chinh chiến nơi đây nhuộm máu anh tài....Tant de jours de combats avaient rougi ces lieux
du sang des héros
Dấu vết vẫn ghi nghìn năm chẳng phai.......................... et les traces y sont inscrustées pour mille ans, indélébiles.
Muôn cờ tươi thắm trong sương gợi chí tang bồng.......Le drapeau flotte éternellement au gré de la rosée
incitant au courage
Rừng chiều như vọng tiếng gọi thù xưa.......................... La nuit semble gronder de l' appel à l' ancienne rancune
Mau cùng nhau tiến .............................. .......................... Vite, partons de l' avant
Không sờn nguy biến .............................. ........................Ne craignons aucun danger
Quyết cố đấu tranh .............................. ............................ déterminés dans notre lutte
Dưới ngàn núi rừng .............................. ........................... sous des milliers de monts
Trong nắng tưng bừng .............................. ......................dans le soleil et l' allégresse ,
Quốc dân chờ mong.......................... ...........................car la patrie repose en nous ses espérances .
------------------------------ ------------------------------ ------------------------------ ------------------------------ -----------------
II . " Nhớ Rừng "
Vào năm 1954, như một món quà sinh-nhật , cha tôi đã cho chúng tôi một khẩu súng hơi Diana .Sau 1954, lúc đi nghỉ mát tại Đà-Lạt, chúng tôi đem theo cái súng hơi đó để đi săn chim .Chính tại Đà Lạt, tôi đã đi thăm rừng trong ngày khi ông Ngô-Đình-Nhu đã mời gia-dình chúng tôi cùng vài nhân-vật Sài-Gòn đi tham-gia một bữa tiệc săn bắn nai vào rừng sâu, cạnh tháp Pongour, 50 cây số miền nam Đà-Lạt.
Tôi còn nhớ rất rõ ngày hôm đó vì lúc đoàn xe-hơi tới khu rừng gần tháp Pongour, ngay lập tức bên cạnh căn cứ người săn, tôi đã phiêu lưu bỏ cái căn cứ đó để đi một mình thăm tháp Pongour. Trong tuổi ngây-thơ 14, tôi đã đem theo cái súng hơi Diana hy-vọng bảo vệ thân mình đối với hổ và lúc tới tháp, tôi đã có một tầm nhìn tuyệt-đẹp của thiên nhiên .Tháp Pongour khá cao có mấy tần đá và dưới tháp có một hồ nước yên lặng và rất tươi mát. Tôi cởi quần áo trên một tảng đá rồi tôi bơi như một con cọp, lượn tấm thân trong nước ấm mát, bơi qua bơi lại tung-hoành hống-hách từ những tảng đá . Đây là một trong buổi tắm đẹp nhất trong cuộc sống của tôi, không thể nào quên được, giữa một môi trường chưa từng bị ô nhiễm bởi người .
Dù tôi đã học trường Pháp từ nhỏ, sanh tại Huế ngày 15/03 năm 1943 và lớn lên tại Việt-Nam tới tuổi 14, tôi không bao giờ quên học tiếng Việt tự mình .Trong tuổi 20, tại Roma, tôi đã quyết định nghiêm-trọng đọc cho suốt đời cuốn sách văn-học Việt-Nam của ông Dương-Quảng-Hàm và sách Việt-Nam sử-lược của ông Trần-Trọng-Kim .Tôi sử dụng rất đều cái từ điển Pháp-Việt và Việt-Pháp mà giáo-sư Đào-Đăng-Vỹ đã tặng trong năm 1957 cho thân-phụ tôi khi ông làm bộ-truong giáo-dục trước khi ông rời Sài-Gòn đi Roma vào cuối năm đó. Chính trong tập-sách của ông Dương-Quảng-Hàm, trong chương nói về nhóm Tự-lực văn-đoàn, tôi đã rất vui mừng phát hiện ra lần đầu tiên trong đời tôi, bài thơ sôi động của nhà thơ Thế-Lữ viết vào năm 1936 , bài thơ "Nhớ rừng"(Lời con hổ ở vườn bách thú).
Tôi đã đọc hàng trăm lần bài thơ tuyệt vời này, không bao giờ cảm thấy mệt mỏi hoặc chán nản vi nó thật là anh dũng và oai nghiêm .Trước bước vào thềm năm Nhâm-Thìn và thềm 70 mùa xuân của tôi, tôi mời độc giả Lều-văn Thăng Sắc một lần nữa cùng tôi nghe bài thơ này qua diễn ngâm-thơ với âm nhạc truyền-thống Việt-Nam của Giáo-sư Trần-Văn-Khê. Đồng thời , tôi xin khiêm nhường giới-thiệu bản-dịch của tôi ra tiếng Pháp của bài thơ đó :
" Nhớ rừng "
(Lời con hổ ở vườn bách thú) cua Thế-Lữ ( 1936)
" L' appel de la jungle " (Complainte d' un tigre en cage)
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt ….....Derrière ces barreaux de fer , rongeant ma haine,
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua ,..me voici désormais allongé, livré à l' ennui des jours
qui passent ,
Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ.........ignorant ces visiteurs arrogants et curieux ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm...venus fixer leurs yeux mesquins sur mon ancienne majesté.
Nay sa cơ bị nhọc nhằn tù hãm......................Me voici désormais réduit en captivité ,
Để làm trò lạ mắt thứ đồ chơi,...................objet de curiosité, vil jeu de montreur de bêtes ,
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi..........à l' instar de cette bande d' ours ridicules ,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.............de ce couple de panthères abruties qui m' avoisinent .
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ..................Je ne cesse de vivre dans le regret et le souvenir
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa,........des temps qui me virent vaguer libre et fort ,
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già.....dans la nostalgie des montagnes et des forêts aux ombres
profondes d' arbres anciens .
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,.......Humant le vent rebelle , à l' écoute des torrents lointains
Với khi hát khúc trường ca dữ dội,.......................... .annonçant ma venue par mon cri rauque et menaçant ,
Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng,.............je frayais calmement mon chemin au travers des sentiers
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,...........et mon corps félin ondulait harmonieux
Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc …....................parmi les ombres des feuilles à épines, des herbes tranchantes.
Trong hang tối mắt thần khi đã quắc...............Dans les sombres cavernes, quand j' entrouvrais mes yeux
Là khiến cho mọi vật đều im hơi,.......................... .......................les hordes d' autres bêtes se taisaient .
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài.......................... ....................J'étais le seigneur de toutes ces créatures,
Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi.................en cet univers d' arbres,de fleurs inconnus et anciens .
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối..................Où retrouver la clarté des nuits de lune auprès des sources
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan,......................... quand je me perdais en leurs reflets d' argent ?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn.......Où désormais revivre ces jours d' averses sur la forêt en émoi
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới,.......................... .quand je restais là à contempler le renouveau de la nature ?
Đâu những buổi bình minh cây xanh nắng gội,..............Où assister à ces matins aux arbres dorés de soleil
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng.......................... ...............quand les chants des oiseaux gaiement
me tiraient du sommeil ?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng..............Où désormais revoir ces couchants écarlates embrasant la forêt
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt........................ quand s' estompant, les flammes du soleil me cédaient le pas,
Để ta chiếm riêng phần vùng bí mật.................afin de me laisser seul maître en ces lieux mystérieux ?
Than ôi ! thời oanh liệt nay còn đâu!......Qu' est il donc advenu de l' ombre de cette gloire d' antan qui fut la mienne ?
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,................. Désormais je couve en mon être une rage sans fin
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,.............abhorant la monotonie de cette vie qui s' écoule en vain,
Những cảnh sửa sang tầm thường giả dối,.......................ces paysages de pacotille, vulgaires et faux ,
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng......ces fleurs soignées, cette herbe taillée, ces allées bien tracées, ces arbres plantés
Giải nước đen giả suối chẳng thông giòng......et cette eau noirâtre qui simule une source sans embouchure
Len dưới lách những mô gò thấp kém,......................... s'écoule sous des tertres bosselés et bien bas .
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm.......................... Et ces feuillages inoffensifs ne cachant nul péril
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu..................... prétendent rivaliser avec les immensités
Của chốn ngàn năm cao cả âm u..........................des contrées sauvages et obscures .
Hỡi oai linh cảnh nước non hùng vĩ,...................Ô puissance divine, majestueuse vision des eaux
Là nơi giống Hùm thiêng ta ngự trị,.................que furent le règne des tigres sacrés que nous fûmes
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,............lieux d' errance qui virent nos vifs ébats de jadis
Nơi ta không còn được thấy bao giờ !...............et que nous ne reverront jamais plus !
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,......Mais qui sait qu' un de ces jours de lassitude ,
Ta đang theo giấc mộng ngàn to lớn.................ne m' abandonnerais je point au rêve immense ,
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi.......délivrance de mon âme s'élançant de nouveau vers vous ,
Hỡi rừng xanh kiêu hãnh của ta ơi !.............Ô fantastiques jungles sans fin qui étiez mon domaine !
Giáo-sư Trần-Văn-Khê diễn ngâm-thơ bài thơ " Nhớ Rừng "
------------------------------ ------------------------------ ------------------------------ ------------------------------ -----------------
III. "Mưa rừng" ca-sĩ Thanh-Nga (1942-1978).
Đ
ng Chiu et Rose de Chine",
â
y là bài ca chiết xuất từ cải lương cùng tên, được viết bởi hai tác-giả Hà-Triều và Hoa Phượng . Tôi rấ
t thích giọng ca của
nữ hoàng vĩ đại của cải-lương , bà Juliette Thanh-Nga. Trong video này , có những lời của bài hát "Mưa rừng" .Toi xin giớ
i-thiệ
u phầ
n dị
ch ra tiế
ng Phá
p của
tô
i . Tôi đã kể lại cuộc gặ
p-gỡ
của tôi với bà Thanh-Nga, trước Tết năm 1978 tại Sài-Gòn trong bài viết bằ
ng tiế
ng Phá
p "Nắ
ề
bài t
ô
i đã
viế
t cho bá
o Good Morning, bá
o on-line của
cự
u họ
c-trò lycée Phá
p tạ
i Sài-Gòn, Chasseloup-Laubat/Jean-Jacques Rousseau đã đổi tên thành Lê-Quý-Đôn và còn giữ tê
n này tới giờ nay ." Mưa rừng" .........................................Pluies de la jungle Mưa rừng ơi mưa rừng.......................Ô pluies de la jungle, sans cesse vos gouttes
Hạt mưa nhớ ai mưa triền miên..........me remmènent au souvenir de mon bien aimé .
Phải chăng mưa buồn vì tình đời.......Il pleut sur la jungle comme il pleut dans mon coeur
Mưa sầu vì lòng người........................ et ce chagrin se déverse en mon âme
Duyên kiếp không lâu.......................... car le charme qui nous liait avait disparu .
Mưa từ đâu mưa về............................ .Ces averses d' où viennent elles
Làm bao lá hoa rơi tả tơi.....................qui arrachent sans répit tant de feuilles et de fleurs ?
Tiếng mưa gió lạnh lùng ngoài mành......La pluie et le vent frappent et agitent les volets,
Lá vàng rời lìa cành.......................... .........les feuilles mortes se détachent des branches,
Gợi ta nỗi niềm riêng......................... ........m'emportant au plus profond de mon âme .
Xin chúc quý độc giả Lều-Văn Thăng Sắc một năm mới Nhâm-thìn 2012 đầy sức-khoẻ, đầy hạnh-phúc và vạn sự như ý .
Nguyễn-Dương-Liên
Roma, Tết Nhâm-Thìn 2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét