Lê Xuân Quang
(Kỉ
niệm ngày giỗ thứ 74 của đại thi hào Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu
(7.6.1938 – 7.6.2012), 113 năm ngày sinh (19.5.1899 – 19.5.2012)
Những
năm ba mươi của thế kỉ 20, nền Thi Ca Việt Nam xuất hiện nhiều Thi nhân
chói ngời hào quang tỏa ra từ các tác phẩm của họ. Trong số đó phải kể
ngôi sao của miền núi Tản, sông Đà: Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu (Tản Đà là
bút danh).
Nguyễn
Khắc Hiếu sinh tại làng Khê Thượng (Bất Bạt, Sơn Tây), gần núi Tản
Viên, Sông Đà – những địa danh đã đi vào vào Lịch sử Văn hóa, Kinh tế,
Khoa học kỹ thuật của tổ quốc... Ông mồ côi cha lúc mới 3 tuổi. Đến 4
tuổi - cụ bà, mẹ nhà thơ - phải bươn chải kiếm sống, không có điều kiên
chăm con (...) ông Phó Bảng Nguyễn Tái Tích - anh cùng cha khác mẹ với
Tản Đà – đón em đưa ra Hà Nội chu cấp ăn học, rèn cặp, hi vọng em mình
tiến thân trên đường cử nghiệp. Trong khi đi học ở trường Qúy Thúc, Tản
Đà say mê người con gái họ Đỗ ở phố hàng Bồ... Chí tiến thủ cùng người
đẹp thôi thúc, năm 1912 - mới 23 tuổi, cậu Ấm Hiếu (tên tục gia đình
thường gọi), như được tiếp thêm sức mạnh - quyết về trường thi Nam Định,
với hi vọng tràn trề: Đoạt tấm bằng cử nhân mang đến cưới giai nhân họ
Đỗ. Thật trớ trêu, năm đó Nguyễn Khắc Hiếu trượt!
Từ
trường thi ’’thất thểu’’rở về, chính mắt chứng kiến người mình yêu lên
kiệu hoa với ngưòi khác, Tản Đà suy xụp tinh thần, điên loạn... dẫn đến
những quyết định hoang đường - Đi ở ẩn để quên sự đời: Vào Hương Sơn tìm
Hồ qủy... tế Chiêu Quân ở Non Tiên... nhịn ăn ở ấp Cồ Đằng và rất nhiều
hành động mang tính bất đắc chí...(1). Thương bạn, Thi sĩ Nguyễn Thiện
Kế (cũng là anh rể) đưa Tản Đà về chăm sóc, khuyên giải... Tản Đà nguôi
dần, nhận ra lẽ sống và chọn cho mình hướng đi mới: Quên mối tình oan
nghiệt kia, cưới vợ, bỏ hẳn ý định tiến thân bằng thi cử, chuyển hướng
sang viết văn, làm báo... Trong 4 năm (1912 – 1915) miệt mài sáng tác,
tập hợp in thành Tản Đà Văn Tập. Năm 1916 Tản Đà công bố tác phẩm đầu
tay tựa đề Còn Chơi. Ngay lập tức được dư luận đương thời chú ý! Tiếp đó
trong 22 năm (1916 - 1938), Tản Đà cho ra đời 35 tác phẩm gồm nhiều thể
loại cùng hàng chục bài đăng trên các báo viết...
Riêng
về Thơ có: Khối tình (lớn, con) - 3 tập I, II, III (1916 - 1918, 1932);
Giấc mộng (lớn, con) - 3 tập 1917, 1929, 1932); Còn chơi 2 tập
(1924,1925) và rất nhiều tác phẩm đủ thể loại bao gồm: Thơ, Văn, Nghiên
cứu, Tạp luận, Dịch thuật... Nếu đem con số 22 năm từ lúc bắt đầu công
bố tác phẩm (1916) đến lúc về với cát bụi (1938), người đọc hết sức thán
phục vì khối lượng tác phẩm đồ sộ . Trung bình mỗi năm Tản Đả công bố
đều đặn hơn 1,5 đầu sách cùng hàng chục bài viết đăng trên sách báo, tạp
chí...
Khi đề tựa cho cuốn Thi Nhân Việt Nam (1942), Hoài Thanh viết trang trọng ở đầu sách bằng một bài ai điếu: Cung Chiêu Anh Hồn Tản Đà, cùng với những lời kính cẩn: ’’... Trên
hội Tao đàn, chỉ tiên sinh là người của 2 thế kỷ. Tiên sinh sẽ đại biểu
cho một lớp người để chứng gíam công việc lớp người kế tiếp. Ở địa vị
ấy, còn có ai xứng đáng hơn tiên sinh...’’ (2).
Thơ
Tản Đà ngoài giá tri nghệ thuật, nhân văn, còn là dấu tích nóng bỏng
hơi thở của thời đại, của lịch sử nước nhà. Người đọc dành cho Tản Đà
lòng yêu mến nồng nhiệt, ngưỡng mộ đến độ: Khi thấy ông im tiếng, vắng
bóng trên văn đàn (vì một lí do bình thường), những độc gỉa yêu thích đã
trăn trở chờ đón... rồi đâu đó có người hoang tưởng tung tin: Tản Đà đã
chết! Riêng chi tiết này đã làm nên một giai thoại văn chương thú vị:
Mai Lâm - nhà gíao đang dậy học ở Cao Bằng, (cách Hà nội hơn 300 cây số)
nghe tin tờ An Nam Tạp Chí do Tản Đà làm chủ bút – đình bản, rồi lại
lóang thoáng có tin đồn Tản Đà đã... chết! Nhà gíao đau xót, dành những
lời thương nhớ, coi nhà thơ ’’ không còn’’ - như chính sự mất mát của
người thân yêu mình. Ông viết bài’’Viếng Thi Sĩ Tản Đà’’. Bài thơ chứa
chan tình cảm của một người yêu thơ, khi hay tin thần tượng của mình...
’’ ra đi vĩnh viễn’’. Ông cảm khái viết, ghi lại trạng thái tâm lý của
mình khiến người đọc cùng đồng cảm.’’ Viếng Thi Sĩ Tản Đà’’ là ’’cuộc
tình đơn phương’’ giữa người đọc và Thi sĩ. Trong bài viết, lặp đi, lặp
lại câu: ’’Ôi Thôi!’’ - cứ như tiếng đọc điếu văn trước mồ - Ô hô... Ai
tai - sau mỗi đoạn ca ngợi công đức của người đã khuất:
Ôi thôi! hỡi bác Tản Đà
Suối vàng nay đã lánh xa cõi đời
Xa trông mây nước ngậm ngùi
Tấm lòng thương nhớ mấy lời viếng thăm
...
Ôi thôi hỡi bác Tản Đà...
Có phen run rủi hai ta tương phùng…
Ôi thôi hỡi bác Tản Đà…
Chí cao nghiệp lớn ai người nối theo…
Bức Dư đồ rách ai bồi
Báo An Nam nghỉ ai rồi lại ra....
Ít lâu sau, thấy Thi Sĩ Tản Đà lại xuất hiện trên Tạp chí Tiểu Thuyết Thứ Bẩy
(của ông Vũ Đình Long), ông Mai Lâm vui mừng, tất tả mang bài
thơ’’viếng bạn’’ của mình về Hà Nội tìm thi sĩ. Gặp nhau, trong tiệc
rượu - cả hai vui thú bình bài thơ của Mai Lâm... Tản Đà sửa vài chỗ...
làm bài mới đáp lại rồi cho đăng cả 2 trên TTTB. Bài đáp lại của Thi sĩ
Núi Tản - sông Đà như gói ghém tâm tư tình cảm của mình với cuộc đời,
với những người ái mộ :
Nực cười cho bác Mai Lâm
Thương nhau chi sớm mà lầm khóc nhau...
Nực cười cho bác Mai Lâm...
Con tằm còn trả nợ đời chưa xong...
Bức Dư đồ rách không bồi
Báo An Nam nghỉ biết đời nào ra
Hủ nho vô ích nước nhà...
Đà chưa cạn, Tản chưa mòn
Còn ai thi sĩ lại còn tri âm
Nực cười cho bác Mai Lâm
Thương nhau chi sớm mà lầm khóc nhau
Ở bài Xướng và bài Đáp của 2 người, có 2 câu đáng chú ý, gợi cho người đọc sự liên tưởng:
Bức Dư Đồ rách ai bồi? (Mai Lâm)
Bức Dư Đồ rách không bồi (Tản Đà)
Để
tìm hiểu thấu đáo về sự kiện Bức Dư Đồ (BĐD)…’’Rách’’, chúng ta đi
ngược thời gian về những năm cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Đây là một
sự kiện văn học, nổi tiếng thời kì Tản Đà đang’’tráng kiện’’:
Sau
khi đánh chiếm Hà thành, Tổng Đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết, thực dân Pháp
tạm thời bình ổn được tình hình. Thực hiện chính sách Chia để Trị :
Hoạch định Việt Nam thành 3 Kỳ (vùng): Bắc Kỳ - Trung Kỳ - Nam Kỳ. Bắc
và Trung Kỳ, cho chính phủ Nam Triều - Vua quan nhà Nguyễn - trực tiếp
quản lí, nhưng thực chất Pháp vẫn gían tiếp lãnh đạo. Ngay đến việc để
vua nào lên ngôi… phế truất vua nào (như trường hợp các vua Duy Tân, Hàm
Nghi) cũng do chính quyền Pháp quyết định.
Còn
Nam Kỳ (…) Pháp chiếm trọn, thiết lập chế độ Thuộc địa, chịu sự lãnh
đạo trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương. Tấm bản đồ vẽ trên mặt giấy thể
hiện chủ quyền lãnh thổ của mỗi quốc gia, nhưng ở Việt Nam, đó chỉ là
bức vẽ tượng trưng, còn trên thực tế, Bức Dư Đồ - thực chất đã ’’Rách’’
nhiều chỗ, nhiều lỗ hổng do thực dân Pháp câu kết cùng Phong kiến tạo ra
sự cát cứ tựng vùng, mặc sức vơ vét tài vật, chiếm đất ruộng vươn, đè
đầu cưỡi cổ dân đen…
Cám
cảnh, Tản Đà viết bài thơ đầu tiên diễn tả tâm trạng mình : Vịnh Bức Dư
Đồ Rách 1. Bài thơ ra đời được các sĩ phu, trí thức và nhân dân hưởng
úng họa theo. BDDR 1 in lần đầu năm 1921, trong tập Còn Chơi. Đến năm
1925 được tuyển chọn in trong tập Thơ Tản Đà:
Nọ bức dư đồ thử đứng coi
Sông sông núi núi khéo bia cười
Biết bao lúc mới công vờn vẽ
Sao đến bây giờ rách tả tơi
Ấy trước ông cha mua để lại
Mà sau con chắu lấy làm chơi (3)
Thôi thôi có trách chi đàn trẻ
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi. (4)
Các
nhà văn, nhà thơ đương thời cảm tác cùng tác gỉa, lên tiếng hưởng ứng,
ủng hộ tư tưởng của Tản Đà bằng nhiều bài họa lại… Tản Đà đồng cảm liền
viết bài Vịnh Bức Dư Đồ Rách - 2, đăng trên ĐPTB (Đông Phương Thời báo),
số 635,- năm 1927. Vẫn theo dòng tâm tư - Nặng lòng với nước non:
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi
Ta bồi cho chúng chị em coi
Giận cho con chắu đà hư thế
Nghĩ đến ông cha dám bỏ hoài.
Còn núi còn sông: Nhìn vẫn rõ
Có hồ có giấy dễ mà chơi.
Bởi chưng hồ giấy ta chưa có
Đành chịu ngồi trông rách tả tơi.
Như
được chắp thêm cánh, đồng hành bay bổng cùng Tản Đà, các nhà nho, nhà
văn và nhân dân có tâm huyết, yêu tổ quốc, tiếp tục tham gia họa lại
BDĐR trong hoàn cảnh đất nước đầy khó khăn : Bị giặc ngoại xâm cai trị,
kinh tế nghèo nàn, lực lượng tự vệ yếu kém và cái chính lũ ’’con chắu
hư’’ buông xuôi, bỏ mặc khiến non song, đất nước’’Rách tả tơi’’(5)… Tản
Đà viết Vịnh Bức Dư Đồ Rách - 3, (đăng trên ĐPTB số 636 – 1927) nhằm uốn
nắn lệch lạc:
Đành chịu ngồi trông rách tả tơi
Buồn chăng? Hỡi các chị em ơi!
Nghĩ cho lúc trước thương người vẽ
Ngó lại xung quanh hiếm kẻ bồi
Hồ giấy bây giờ mua kiếm khó
Non sông ai hỡi đợi chờ ai?
Còn núi còn sông còn ta đó
Có lúc ta bồi chúng bạn coi.
Tuy
đã nản lòng trước thời cuộc, hoàn cảnh, nhưng thi sĩ vẫn tin tưởng ở
tương lai, lòng tự hào ý chí của dân tộc: Nhất định đất nước sẽ hưng
thịnh miễn là nhân dân’’ai ai đó’’ cùng chung sức, bồi đắp lòng yêu
nước’’ Tìm cách mua hồ dán lại chỗ rách’’… rồi lớn tiếng kêu gọi: Sơn hà
đang trong cơn nguy biến các người – con Rồng, chắu Lạc - có dốc sưc
chung lòng, cùng Ta – Người nghệ sỹ - cứu đất nước ra khỏi họa diệt
vong, không?…
Tác giả tổng kết cuộc họa thơ bằng bài Vịnh BDĐR - 4, (đăng trên ĐPTB số 643 - năm 1927):
Có lúc ta bồi chúng bạn coi
Chị em nay hãy tạm tin lời
Dẫu cho tài có cao là thánh
Chưa dễ tay không vá nổi trời
Hồ giấy muốn mua, tiền chẳng sẵn
Non sông đứng ngắm lệ nhường rơi
Việc nhà chung cả ai ai đó
Ai có cùng ta sẽ liệu bồi?
Tản
Đà Nguyễn Khắc Hiếu xứng đáng là thi hào vĩ đại của dân tộc. Bằng những
sang tác của mình, ông đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam nhiều công
sức, làm phong phú lịch sử thi ca của nước nhà ở đầu thế kỉ 20 !
Berlin 20.12.2007 – 30.5.2012
LXQ
(1)
- Trích trong Tuyển tập Tản Đà - do Nguyễn Khắc Xương (con trai Tản Đà)
tuyển chọn, khảo dị, đính chính. Xuân Diệu viết lời giới thiệu. Nhà
xuất bản Văn Học - năm 1986
(2) - Thi Nhân Việt Nam , trang 15, nxb Văn Học năm 2002
(3) - Câu này in lần đầu (1921) trong Còn Chơi:
Ấy trước ông cha mua để học
Mà sau con chắu nghĩ là chơi’’
Khi in trong Thơ Tản Đà (1927) tác gỉa sửa lại như trên (Chú của Nguyễn Khắc Xương).
(4) - Tôi (LXQ) đã đọc một số dị bản, câu kết của Vịnh BDĐR - 1, như sau: Thôi để rồi ta liệu lại bồi.
(5) – Thơ chân dung tự họa của Xuân Sách :
‘’…Ở một cung đường rách tả tơi’’
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét