Sài Gòn có một quán café "Hoa vàng", trước kia còn gọi là "Động hoa vàng". Quán nằm ở Ngã Tư Bảy Hiền, trang nhã, tĩnh mịch và rất nên thơ. Khách thường là những người đứng tuổi. Ai vào, nếu dể ý một tí sẽ thấy một “lão nông” ngồi lặng lẽ ở góc nhà. Đó chính là thi sĩ Phạm Thiên Thư, tác giả của những bài thơ nổi tiếng được Phạm Duy phổ thành những tình khúc bất hủ.
Ngày
xưa Hoàng Thị…
Mỗi khi căn phòng vang lên giai điệu mượt mà "Em
tan trường
về, đường mưa nho nhỏ, anh theo Ngọ về...", ông lại nhắm mắt,
ngồi bất
động như một vị thiền sư, thả hồn về những dĩ vãng xa
xưa...Ngày ấy, trên con
đường trải nắng vàng, cậu học trò lặng lẽ theo sau cô gái tên
Ngọ đi học về,
nàng mặc áo dài trắng, tay ôm cặp, mái tóc xoã ngang vai...
Chàng si tình, để
lại những vần thơ xót xa và lung linh mãi đến sau này...
“…Em tan trường về
Cuối đường mây đỏ
Anh tìm theo Ngọ
Dấu lau lách buồn…
Cuối đường mây đỏ
Anh tìm theo Ngọ
Dấu lau lách buồn…
Có thể nói rằng, vào
những năm của thập kỷ 70, bài thơ "Ngày xưa Hoàng Thị.." là
một tuyệt
tác. Sau khi Phạm Duy phổ nhạc, tác phẩm đã trở thành một
hiện tượng tại
miền Nam. Thanh Thúy là ca sĩ đầu tiên thể hiện thành công bài
hát này. Lúc bấy
giờ, trên các báo phát hành ở Sài Gòn, người ta thường nghi
vấn và đặt dấu hỏi,
nhân vật chính trong "Ngày xưa Hoàng Thị" là ai? Một vài
người
tự nhận là mình, số khác lại bình thơ rồi cho rằng nhân vật
chính trong thơ là
cô A hoặc cô B nào đó... Đến khi các phóng viên gặp Phạm
Thiên Thư hỏi
chuyện, ông nói rằng, người đẹp trong ca khúc là cô Hoàng Thị
Ngọ, nhưng không
hiểu tại sao nhiều người thời bấy giờ vẫn không tin ?
Quê ông ở Kiến Xương,
Thái Bình nhưng lại sinh ra ở Lạc Viên, Hải Phòng. Năm 1954,
khi mới 14 tuổi,
ông theo cha mẹ di cư vào miền Nam, cư ngụ tại khu Tân Định,
Sài Gòn. Đó là một
căn nhà nhỏ nằm đằng sau chợ Tân Định cách trường Trung học
Văn Lang, nơi ông
học, gần một cây số. Học xong Tú tài, Phạm Thiên Thư theo học
trường Phật học
Vạn Hạnh, chọn cửa Phật làm chốn dừng chân và gửi hồn vào cõi
Thiền.
Nhà thơ Phạm Thiên Thư,
người đã thi hóa Kinh Phật, ông xuất hiện trong làng thơ như
một người tu sĩ,
rao giảng Phật Pháp bằng thi ca như Kinh Ngọc, Kinh Hiền, Kinh
Thơ, Chiêu Hồn
Ca, Đoạn Trường Vô Thanh,..Thơ Phạm Thiên Thư nửa đời, nửa
đạo, tâm linh khác
thường, làm cho độc giả lãng đãng và ngẩn ngơ:
“...Em làm trang tôn kinh
Anh làm nhà sư buồn
Đêm đêm buồn tụng đọc
Lòng chợt nhớ vương vương
Đợi nhau từ mấy thuở
Tìm nhau cõi vô thường
Anh hóa thân làm mực
Cho vừa giấy yêu đương...”
Anh làm nhà sư buồn
Đêm đêm buồn tụng đọc
Lòng chợt nhớ vương vương
Đợi nhau từ mấy thuở
Tìm nhau cõi vô thường
Anh hóa thân làm mực
Cho vừa giấy yêu đương...”
(Pháp
Thân)
Thế giới thi ca Phạm
Thiên Thư giúp chúng ta khám phá thêm những cửa ngõ mới lạ,
phong phú về tôn
giáo, tình yêu và thiên nhiên. Bài thơ "Ngày xưa Hoàng Thị..."
ra đời
trong lúc ông mới chập chững bước vào làng thơ nên nhiều người
nghĩ đó là bài
thơ đầu tay. Thật ra, bài thơ đầu tiên chính là bài "Vết chim
bay", lúc ông mới 24 tuổi, còn nương náu ở cửa chùa.
Ngày ấy, có một nữ sinh
thường vào sân chùa tìm nơi tĩnh lặng để học bài. Cô đẹp và
thánh thiện như ánh
sáng của Quan Thế Âm Bồ Tát, Phạm Thiên Thư đem lòng thương
mến.
Hai người quen nhau độ mươi ngày, một buổi chiều như bao buổi
chiều khác, ông
ngồi ở hiên chùa đợi mãi nhưng chẳng thấy bóng dáng cô. Nàng
ra đi chẳng một
lời từ biệt để lại sự đơn côi và nuối tiếc cho chàng trai mới
lớn. Mười năm
sau, khi trở lại chùa xưa, tình cờ nhìn thấy nét phấn trắng
ghi tên hai đứa vẫn
còn trên gác chuông, lòng bâng khuâng chuyện cũ, Phạm Thiên
Thư đã viết nên bài
thơ này:
"Ngày xưa anh đón em.
Nơi gác chuông chùa nọ.
Con chim nào qua đó.
Còn để dấu chân in...
Anh một mình gọi nhỏ.
Chim ơi biết đâu tìm...”
Tình yêu trong thơ Phạm
Thiên Thư thánh thiện, nhẹ nhàng và kín đáo. Chút bẽn lẽn, khẽ
chạm mà không
dám “tay trong tay” vì sợ tình sẽ tan biến thành khói sương.
Đạo Phật ảnh hưởng
và tạo nên một không gian ái tình riêng trong thơ Phạm Thiên
Thư. Nó làm cho
người đời ngỡ ngàng, đắm say trong thế giới thi ca huyền diệu
của thi sĩ.
Theo ông, Hoàng Thị Ngọ trong bài thơ "Ngày
xưa Hoàng Thị" chỉ là kỷ niệm, một mối tình thoảng nhẹ vu vơ
thời trai
trẻ. Trong những năm Tú tài , ông đã để ý một cô bạn học cùng
lớp tên là Hoàng
Thị Ngọ, cô gái đó quê gốc Hải Dương và ở gần nhà ông. Sau
này, Phạm Thiên Thư
tìm lại cố nhân nhưng người hàng xóm cho biết, bà Ngọ đã bán
nhà và dọn đi nơi
khác từ lâu.
Ngày ấy, mỗi khi xếp hàng
vào lớp, cô gái đứng ở đầu hàng bên nữ, nổi bật, mái tóc dài
xoã trên bờ vai
mảnh dẻ. Ông chỉ im lặng ngắm nhìn. Khi tan trường, cô gái một
mình trên đường
về nhà, ông lại là kẻ lẽo đẽo theo sau: "Cô ấy ôm cặp đi
trước, tôi đi
theo nhưng không dám lên tiếng. Trong bóng chiều tà, ánh nắng
hắt qua hàng cây,
cô ấy lặng lẽ bước, gây cho tôi những cảm xúc bâng khuâng khó
tả. Cứ thế, tôi
chỉ biết lặng lẽ đi theo sau cô ấy hàng ngày, giấu kín những
cảm xúc của mình
không cho bất cứ ai biết". Và một lần đắm chìm trong cảm xúc
ấy, ông đã
cầm bút viết lên bài thơ "Ngày xưa Hoàng Thị".
Những năm sau này, mỗi
khi đi ngang lại con đường của một thuở yêu đương, hình ảnh cô
gái với mái tóc
xoã ngang vai lại hiện về trong ông:
"Em tan trường về.
Đường mưa nho nhỏ.
Chim non giấu mỏ.
Dưới cội hoa vàng..”
Giờ đây, Hoàng Thị Ngọ đã
định cư ở Mỹ. Hơn 50 năm, nơi phương trời xa xôi, cô nữ sinh
ngày ấy có còn
nhớ…
“…Tìm xưa quẩn quanh
Ai mang bụi đỏ
Dáng em nho nhỏ
Trong cõi xa vời
Ai mang bụi đỏ
Dáng em nho nhỏ
Trong cõi xa vời
Tình ơi! Tình ơi!”
Một lần, có người
hỏi ông "Thế khi nào mọi người mới biết tới những bài thơ của
bác?" Phạm
Thiên Thư trả lời: "Ấy là khi chúng tôi nhờ nhạc sỹ Phạm Duy
phổ nhạc 10
bài Đạo ca do tôi viết lời, Phạm Duy gặp và tình cờ đọc được
tập thơ của tôi.
Tôi cũng không nghĩ Phạm Duy lại thích bài thơ Ngày xưa Hoàng
thị đến thế, ông
đề nghị phổ nhạc bài thơ đó. Dĩ nhiên được một nhạc sỹ nổi
tiếng như Phạm Duy
để ý đến bài thơ của mình thì có gì hạnh phúc bằng. Và tôi
cũng bất ngờ nghe
lại bài thơ của mình khi đã phổ nhạc. Nhạc sỹ đã tôn bài thơ
lên rất nhiều qua
những giai điệu nhạc bay bổng".
Cha Phạm Thiên Thư tuy
làm nghề bốc thuốc Bắc nhưng thỉnh thoảng vẫn làm thơ. Ông còn
nhớ, cha ông đã
từng đạt giải Nhì về thơ do một tờ báo ở Hà Nội tổ chức. Phạm
Thiên Thư làm thơ
để trải lòng mình chứ không làm thơ chuyên nghiệp. Vì vậy mãi
đến năm 1968, ông
mới tự xuất bản tập thơ đầu tiên, chủ yếu để tự đọc, tặng một
số bạn bè thân.
Thật ra, trong cuộc đời sáng tác, Phạm Thiên Thư chẳng muốn ai
biết về mình.
Thoáng
hương qua
Năm 1964, nhà thơ Phạm Thiên Thư xuống tóc, đi tu
ở một ngôi chùa
với Pháp danh là Thích Tuệ Không. Trong 9 năm tu hành (1964
-1973), ông đã
chứng kiến một cuộc tình giữa chú tiểu và một cô bé Phật tử.
Chàng 16 tuổi và
nàng cũng ngần tuổi đấy. Tình yêu vừa chớm như những bông hoa
nở sớm sau sân
chùa. Cứ mỗi lần, chú tiểu đánh chuông, cô bé đứng bên nhìn và
tụng niệm. Trong
những lời khấn nhỏ ấy, cô nguyện cầu cho 2 đứa được bên nhau
mãi mãi...
Ðầu xuân em lễ chùa này
Có búp lan vàng khép nép
Vườn trong thoáng làn hương bay
Bãi sông lạc con bướm đẹp
Có búp lan vàng khép nép
Vườn trong thoáng làn hương bay
Bãi sông lạc con bướm đẹp
Mùa xuân quen nhau, mùa
hạ cùng em đi lễ... Rồi mùa thu, mùa đông, hai người vẫn yêu
thương tha thiết,
bốn mùa hẹn nhau trong ngôi chùa cổ, có lò hương với làn trầm
nghi ngút:
Vào hạ em lễ chùa này
Trên đồi trái mơ ửng chín
Lò hương có làn trầm bay
Vờn trên bờ tóc bịn rịn
Trên đồi trái mơ ửng chín
Lò hương có làn trầm bay
Vờn trên bờ tóc bịn rịn
Chiến tranh loạn lạc,
cuối mùa đông năm ấy, cô bé chết trong trong lúc chạy trốn
những cuộc hành
quân. Trong mưa bay và gió lạnh, chú tiểu gạt nước mắt đưa
tiễn người yêu trong
chiếc áo quan đơn sơ và mộc mạc như chính tình yêu của họ:
Sang đông em lễ chùa này
Ngoài sân có mưa bụi bay
Hắt hiu trong cành gió bấc
Vườn chùa rụng cánh lan gầy
Cuối đông đưa em tới đây
Trong lòng áo quan gỗ trắng
Tóc em tợ óng làn mây
Cội hoa tưởng ai trầm lặng
Ngoài sân có mưa bụi bay
Hắt hiu trong cành gió bấc
Vườn chùa rụng cánh lan gầy
Cuối đông đưa em tới đây
Trong lòng áo quan gỗ trắng
Tóc em tợ óng làn mây
Cội hoa tưởng ai trầm lặng
Gia đình đưa xác cô an
táng sau chùa, nơi những bông hoa vẫn còn nở. Mỗi buổi chiều,
chú tiểu đến bên
mộ, thắp hương và ngồi mãi cho đến khi hoàng hôn buông
xuống...
Em vừa nằm xuống đất này
Vườn trong có bông đào nở
Con bướm chập chờn hương bay
Quơ sợi râu vàng bỡ ngỡ
Nắm đất nào vừa lấp mộ
Có con chim hót đầu cành
Tiếng tan trên giòng suối xanh
Nước ơi sao buồn nức nở
Vườn trong có bông đào nở
Con bướm chập chờn hương bay
Quơ sợi râu vàng bỡ ngỡ
Nắm đất nào vừa lấp mộ
Có con chim hót đầu cành
Tiếng tan trên giòng suối xanh
Nước ơi sao buồn nức nở
Mỗi cuộc tình đều có
những kết thúc khác nhau. Có người đến đỉnh cao của hạnh phúc,
tràn ngập niềm
hân hoan vô bờ bến. Có kẻ rơi xuống vực sâu của bất hạnh, ôm
lấy đơn côi trong
im lặng và nước mắt. Cho dù âm dương cách biệt ngàn trùng,
tình yêu ấy vẫn tươi
đẹp, sáng lung linh và huyền diệu. Cõi người vẫn tin rằng, họ
vẫn yêu thương
nhau, con tim vẫn thổn thức một lời hò hẹn từ kiếp trước.Và
như thế, trong ánh
sáng huyền diệu của Phật Pháp, họ không còn bên nhau nữa nhưng
tình yêu vẫn
lóng lánh như những giọt sương còn đọng lại trên những bông
hoa nở sớm sau sân
chùa.
Câu chuyện hoàn toàn có
thật, Phạm Thiên Thư xúc động và sáng tác bài thơ nổi tiếng:
"Thoáng hương
qua". Sau này, Phạm Duy phổ thành nhạc phẩm “Em lễ chùa này”
và ca khúc đã
đi vào lòng người cho mãi đến giờ. Sau này, Phạm Duy còn phổ
nhạc thêm một
số bài thơ tình khác của ông như: Đưa em tìm động hoa vàng,
Gọi em là đoá tình
sầu,...Tất cả những ca khúc này đều nổi tiếng và được mọi
người biết
đến.
Sau 1975, Phạm
Thiên Thư lui về ở ẩn. Từ năm 1976 đến 1981, để mưu sinh,
Phạm thi sĩ mở
quán hớt tóc ở Lăng Cha Cả. Giai đoạn (1981 - 1983), ông bán
tạp hoá,
rượu thuốc, trà đá... ở đường Lý Chính Thắng. Sau 1983, Phạm
Thiên Thư nghiên
cứu, sáng lập và truyền bá môn dưỡng sinh PHATHATA (Pháp -
Thân
- Tâm). Sau đó, ông được bác sĩ, nghệ sĩ Trương Thìn, Viện
trưởng Viện Y học
dân tộc mời về cộng tác với Viện. Trong suốt thời gian này,
Phạm Thiên Thư
thỉnh thoảng cho đăng báo những bài thơ ngắn. Đôi lần, giới
văn nghệ sĩ lại gặp
ông đến dự họp ở Hội Nhà văn TP.HCM. Thời gian sau này, Phạm
Thiên Thư thực sự
trở lại và hoà nhập với văn đàn khi trường ca "Đoạn Trường Vô
Thanh"
của ông được tái bản một cách trang trọng.
Thế giới thi ca Phạm
Thiên Thư giúp chúng ta khám phá thêm những cửa ngõ mới lạ,
phong phú về tôn
giáo, tình yêu và thiên nhiên. Mùa xuân năm Nhâm Thìn (2012),
Phạm Thiên
Thư đã giao lưu
với khán giả Đà Nẵng trong
chương trình thơ - nhạc mang tên “Động
Hoa Vàng” tại Nhà
hát Trưng Vương. Với sự dàn dựng công
phu và góp mặt của nhiều ca sĩ trẻ, cuộc đời, thi ca và âm
nhạc của người tu sĩ
lãng mạn này lại tái hiện một lần nữa trong lòng người hâm mộ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét