Nắm được bí truyền của Thái Ất, ông đã “nhìn” trước được sự kiện Cách mạng tháng Tám năm 1945 hay thời điểm xảy ra chiến tranh thế giới lần II, thậm chí, ông còn biết được tên tuổi của mình sẽ trở lại sau đúng 500 năm…
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm với những lời sấm truyền
được lưu danh trong sử sách. Ảnh: PV.
Giai thoại và sự “trở lại” sau 500 năm
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi, đời
vua Lê Thánh Tông (tức năm Hồng Đức thứ 22 – năm 1491) tại làng Trung
Anh, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương – nay là làng Trung Am, xã Lý Học, huyện
Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Ông sinh trưởng trong một danh gia vọng tộc, cha
ông là Thái Bảo Nghiêm Quận công Nguyễn Văn Định, mẹ là bà Nhữ Thị Thục
tinh thông lý số là con gái của quan Thượng thư Nhữ Văn Lân. Ông mất năm
Ất Dậu (1585) hưởng thọ 95 tuổi.
|
Tương truyền rằng trong một lần đi sứ, quan Thượng
thư mang về bộ sách Thái Ất thần kinh, nhưng đọc cũng không hiểu hết.
Thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm đặc biệt thông minh hơn người, quan Thượng thư
bèn trao lại cuốn sách quý ấy cho học trò. Truyền thuyết nói rằng nhờ
hiểu được cuốn sách ấy mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết ra được những lời
tiên tri cho hàng trăm năm sau. Những lời tiên tri cho hậu thế ấy chính
là trong tập Sấm Ký Nguyễn Bỉnh Khiêm mà dân gian quen gọi là Sấm Trạng
Trình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà tiên tri thứ hai, xuất
hiện đúng 500 năm sau nhà tiên tri đầu tiên là Thiền sư Vạn Hạnh
(938-1025) với những câu sấm về việc xuất hiện nhà Lý. Vô số giai thoại
được dân gian truyền nhau về những lời tiên đoán của Trạng Trình trước
khi sự việc xảy ra. Có giai thoại kể rằng: Tổng đốc Hải Dương có lần về
thăm quê Trạng Trình. Trong lúc đi dọc sông Tuyết Giang, thấy có ngôi mộ
lớn đang có nguy cơ sụp lở, quan xem xét cẩn thận mới biết là mộ của
thân phụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Vị quan Tổng đốc hết sức ngạc nhiên bởi Trạng Trình
là thầy lý số hàng số 1 mà sao lại đặt mộ bố ở chỗ thế này, ông bèn bàn
bạc với con cháu Trạng Trình và quyết định di dời lại ngôi mộ vào chỗ
khác, ngầm ý muốn sửa lại lỗi xưa của Trạng Trình. Nào ngờ khi đào đến
gần hộp quách, phát hiện thấy có tảng đá lớn, lật lên xem thì thấy tấm
bia khắc hai dòng chữ: “Bát thập niên tiền khi chung vũ tả/Bát thập niên
hậu khí nhập ư trung”, nghĩa là: Tám mươi năm trước khí tốt bên
trái/Tám mươi năm sau khí tốt rời vào trong!
Trong Sấm Ký, Trạng ghi rõ về những biến thiên trong
lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng cho đến hôm nay. Và cả cái thời khắc
“trở lại” của ông cũng được ghi rõ trong những lời sấm truyền, Trạng
viết rằng tên tuổi của ông chỉ “sống lại” với hậu thế sau đúng 500 năm.
Hậu vận này được chính ông viết trong lời sấm: “Bao giờ Tiên Lãng xẻ
đôi/Sông Hàn nối lại thì tôi lại về”.
Lời sấm này có nghĩa là bao giờ vùng đất Tiên Lãng
bị xẻ làm đôi ra và con sông Hàn được nối lại thì tên tuổi của Nguyễn
Bỉnh Khiêm sẽ vang dội trở lại. Quả đúng như lời sấm, vào năm 1991 Tiên
Lãng bị xẻ đôi ra vì có công trình đào con sông để làm kênh thuỷ lợi.
Thời điểm ấy cũng vào đúng 500 năm sau thời đại của ông. Cùng lúc ấy thì
có cây cầu được xây dựng nối sông Hàn từ quê Vĩnh Bảo của cụ sang Thái
Bình. Cũng từ năm ấy trở đi, tên tuổi, danh tiếng, tài năng kiệt xuất
của cụ được sống lại, lễ kỷ niệm 500 năm ngày sinh của cụ được Nhà nước
tổ chức lọng trọng tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Lễ hội tưởng nhớ Trạng Trình ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Ảnh: PV
“Sấm” cho nhà Mạc, nhà Nguyễn, nhà Trịnh
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được dân gian truyền
tụng và suy tôn là “nhà tiên tri số 1” của Việt Nam. Người Trung Hoa thì
coi ông là “An Nam lý số hữu Trình tuyền”.
|
“An Nam lý số hữu Trình tuyền” Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng
đưa ra lời sấm cho nhà Nguyễn, mà nhờ đó nhà Nguyễn mới tiến vào Nam mở
rộng bờ cõi để đất nước ta có hình thái như ngày hôm nay. Ấy là năm
1568, khi Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết, bèn
sai người đến hỏi Trạng, khi ấy đã 77 tuổi đang ở ẩn tại am Bạch Vân.
Trạng Trình không nói không rằng, cầm tay sứ giả dắt ra hòn non bộ, chỉ
vào đàn kiến đang bò và bảo: “Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân”,
nghĩa là một dải Hoành sơn có thể dung thân được. Hiểu được ngầm ý ấy,
Nguyễn Hoàng bèn nhờ chị xin với anh rể là Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ
đất Thuận Hóa từ đèo Ngang trở vào, nhờ đó mà dựng nên nhà Nguyễn ở
phương Nam. Sau này, nhà Nguyễn đã đổi câu sấm của Trạng thành: “Hoành
sơn nhất đái vạn đại dung thân” hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp mãi mãi
nhưng quả đúng như lời sấm ban đầu của Trạng, nhà Nguyễn chỉ có thể dung
thân ở dải Hoành sơn chứ không thể tồn tại mãi mãi, nên triều đại nhà
Nguyễn đã chấm dứt vào năm 1945.
Còn với triều đại thứ 3 cùng tồn tại khi ấy là nhà
Trịnh, thì thời điểm vua Lê Trung Tông mất không có người nối dõi, Trịnh
Kiểm định soán ngôi nhà Lê nhưng chưa dám quyết nên đã sai người tới
hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông cũng không nói năng gì mà dẫn sứ giả ra chùa
thắp hương bảo: “Mấy năm nay mất mùa, nên tìm giống cũ mà gieo”. Rồi
Trạng lại sai chú tiểu quét dọn chùa sạch sẽ và nói: “Giữ chùa thờ phật
thì ăn oản”, ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn. Trịnh Kiểm
nghe theo liền sai người đi tìm tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê
Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng nhà Lê
nhưng thực chất nắm quyền điều hành chính sự, hai bên cùng tồn tại tới
hơn 200 năm. Vì thế mà có câu: Lê tồn, Trịnh tại.
Bức tượng mô phỏng cảnh Trạng Trình và các đệ tử đặt ở khu di tích
Nguyễn Bỉnh Khiêm tại Hải Phòng.
Vận nước hưng thịnh sau 500 năm…
Vận thế đất nước hưng thịnh trong lời sấm quả nhiên
được ứng vào đúng 500 năm sau ngày mất của Trạng: “Hồng lam ngũ bách
nghinh thiên hạ/Hưng tổ diên trường ức vạn xuân”. Có nghĩa là đất nước
Hồng Lam này sau ta 500 năm sẽ đến những mùa xuân hưng thịnh vĩnh viễn.
Và thực tế cho thấy, câu sấm này đã ứng nghiệm từ năm 1991, tức là đúng
sau 500 năm, đất nước ta đã thực sự khai mở. Trước đó, đất nước ta đã có
cuộc đổi mới tư duy từ năm 1986 nhưng đến năm 1991 mới thực sự chuyển
biến mạnh.
Ngay cả sự kiện trọng đại Cách mạng tháng Tám năm
1945 cũng được Trạng “nhìn” thấy từ hàng trăm năm trước: “Cửu cửu càn
khôn dĩ định/Thanh minh thời tiết hoa tàn/Trực đáo dương đầu mã vĩ/Hồ
binh bát vạn nhập Tràng An”. Lời sấm này có nghĩa là đất nước ta phải
qua 81 năm mới thoát khỏi ách nô lệ, sau đó phải qua 9 năm nữa mới được
yên, thể hiện bằng câu “Thanh minh thời tiết hoa tàn”. Đó chính là trận
Điện Biên Phủ lẫy lừng ngày 13/2/1954 đúng vào tiết thanh minh. “Thời
tiết hoa tàn” tức là ở thời điểm thanh minh đó có một sự tàn lụi, thì
chính là sự tàn lụi của ách cai trị của thực dân Pháp. “Trực đáo dương
đầu mã vĩ” tức là cuối năm Ngọ, đầu năm Mùi thì mới có sự thành công. Đó
chính là sau chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 3/1954, đến 10/10/1954 mới
giải phóng Thủ đô và ngày 1/1/1955 Chính phủ mới về tiếp quản Thủ đô.
Lời sấm “Hồ binh bát vạn nhập Tràng An” nghĩa là có lính tám Sư đoàn của
vị lãnh tụ tài ba tiến vào Tràng An.
Một loạt các mốc lịch sử khác cũng được Trạng tiên
đoán từ 500 năm trước. Tất cả các sự kiện đó đều ứng vào câu sấm: “Long
vĩ xà đầu khởi chiến tranh/Can qua xứ xứ khổ đao binh/Mã đề dương cước
anh hùng trận/Thân dậu niên lai kiến thái bình”. Câu này dịch nôm na
nghĩa là cuối năm Thìn đầu năm Tỵ sẽ khởi đầu có chiến tranh, ứng vào sự
kiện từ cuối năm 1976 (Thìn), đầu năm 1977 (Tỵ) cuộc chiến tranh biên
giới Tây Nam nước ta đã rục rịch xuất hiện; tình hình biên giới với
Campuchia căng thẳng. Sau đó, là chiến tranh. Rồi đến câu “Mã đề dương
cước anh hùng trận”, nghĩa là Trạng Trình tiên đoán nạn can qua phải
trải qua cả năm Ngọ nữa. Quả nhiên là đúng hết năm Ngọ, đầu năm Mùi ta
mới diệt được quân diệt chủng Pôn pốt, Campuchia được giải phóng. “Thân
dậu niên lai kiến thái bình”, tức là chiến tranh còn xảy ra cho đến khi
qua năm Thân tới năm Dậu mới có thái bình được.
Lời sấm còn ứng đúng với hai cục diện trên thế giới.
Cục diện thứ nhất là cuộc Đại chiến thế giới lần thứ II. Đại chiến thế
giới khởi đầu từ khi phát xít Đức tấn công Ba Lan, từ năm 1940 đã bắt
đầu rục rịch (cuối năm Thìn - Long vĩ) khởi đầu chiến tranh, đến năm
1941 (đầu năm Tỵ - Xà đầu) Hitler tấn công Liên Xô. Qua cuối năm 1942,
giữa năm 1943 (Mã đề dương cước) thì đến năm 1944 - 1945 (Thân Dậu niên
lai kiến thái bình) mới qua khỏi nạn chiến tranh. Cục diện thứ hai là
cuộc chiến tranh Iraq cũng xảy ra vào cuối năm Thìn (2000), đầu năm Tỵ
(2001) rồi kéo dài đến hết năm Thân - Dậu mới ổn.
Những lời sấm phần từ đầu đến khi Trạng Trình quy
tiên không nhiều, chủ yếu là tiên đoán gian đoạn từ sau khi ông qua đời
cho đến hôm nay. Một số ý kiến lại cho rằng đến cuối năm 2012, đầu năm
2013 sẽ lặp lại chu kỳ xảy ra loạn lạc đao binh như lời sấm: “Long vĩ xà
đầu khởi chiến tranh/Can qua xứ xứ khổ đao binh/Mã đề dương cước anh
hùng trận/Thân dậu niên lai kiến thái bình”. Luồng ý kiến này cho rằng,
cuối năm thìn 2012, đầu năm Tỵ 2013, trên thế giới sẽ xảy ra chiến tranh
và qua năm Mùi, năm Ngọ đến năm Thân, năm Dậu thiên hạ mới lại thái
bình.
Cuối cùng, những lời sấm của nhà tiên tri số 1 Việt
Nam cũng vẫn quay trở về với ý nghĩa sâu xa như ngay trong lời cảm đề
ông đã viết: “Bí truyền cho con cháu - Dành hậu thế xem chơi”- Mọi ý
nghĩa sâu xa hơn xin để độc giả suy ngẫm!
Theo Lã Xưa- Gia đình & Xã hội
(Ghi theo lời kể của
nhà thơ Nguyễn Thụy Kha, người có “duyên” làm bộ phim “Nguyễn Bỉnh
Khiêm – Cây đại thụ rợp bóng 500 năm”, góp phần đưa tên tuổi Trạng trở
lại)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét