Thứ Sáu, 8 tháng 4, 2016

Đi trong lốc xoáy-Tiểu thuyết của Thăng Sắc, các chương 1,2.

Thăng Sắc xin giới thiệu với bạn đọc Tiểu thuyết Đi trong lốc xoáy, NXB HNV, 2015


Chương 1.


          - Nó mà tòi ra con bê đực thì cái Ly thôi học !
          Bằng giọng khàn đặc của người nghiện thuốc lào, ông bố Ly đã nói như thế lúc chiều nay, khi con bò cái cong đuôi lệch sang một bên, mông tóp lại, rắm rít tuôn ra ùm ùm. Đấy là những dấu hiệu con bò đen khoang trắng gốc Hà Lan của nhà nó sắp đẻ. Chuyện bò đẻ đối với người dân Thung Củ là chuyện lớn, luôn được chờ đón, tiền là ở cái bụng con bò chửa căng tròn kia. Ở Thung Củ người ta gọi trâu, bò, gà, lợn…là những “con của”. Nhiều người thành tâm mang vàng hương ra tận mộ ông bà bố mẹ ở giữa đồng, khấn vái, cầu xin những người thân ở thế giới bên kia độ cho “con của” đẻ ra con bê cái. Ông bố Ly không làm thế, chỉ lấy bàn tay thô nhám với những ngón tay dùi đục xoa xoa vỗ vỗ lên mông con bò và nói với Ly :
          - Chắc chỉ đêm nay thôi. Mày phải thức canh chừng, hễ bò đẻ thì gọi ngay bố dậy.
          Tiếng gáy i ỉ của lũ dế trong vườn và mấy tiếng chó sủa vu vơ làm cho đêm nhà quê tối như mực càng thêm im ắng, khiến cho Ly, tuy đã quen với khung cảnh này mà vẫn thấy rợn. Nó ngồi thu lu ở góc giường, thỉnh thoảng lại đập muỗi đánh cái bốp. Những cơn gió cuối hè tha hồ lùa qua cửa sổ vào tận trong nhà, thoải mái mang theo cái mát lạnh về sáng kèm mùi nước đái bò khai nồng nặng nề.
          - Sao không chợp mắt đi một lúc ?
          Hóa ra bố nó cũng chưa ngủ, thảo nào Ly không nghe thấy tiếng ngáy như cối xay lúa của ông. Mẹ Ly cựa mình yếu ớt. Bà bị ốm từ lâu nay nhưng chưa tìm ra bệnh, vay mượn thuốc thang đã bộn tiền mà chưa thấy dấu hiệu thuyên giảm. Bây giờ cả nhà đang thao thức chờ đợi vào cái sự kỳ diệu của con bê nằm trong bụng mẹ kia. Nó mà là một con bê cái thì ngay lập tức sẽ có giá hơn chục triệu đồng, còn một con bê đực thì coi như công cốc. Bởi vậy Ly buồn ngủ nhưng không dám chợp mắt, ngồi nôn nóng chờ xem đêm nay số phận sẽ cho cô con bê đực hay con bê cái. Những ý nghĩ về việc có được học tiếp hay phải thôi học đang lơ mơ luẩn quẩn trong đầu thì Ly giật mình nghe tiếng con bò rống lên, ò ò vang rền như là muốn  báo hiệu một sự kiện trọng đại, phá vỡ cái yên tĩnh vẫn đang còn đặc quánh. Ly vội vàng bật đèn, chưa kịp gọi thì ông bố đã vùng dậy, hai bố con chạy ào ra chuồng bò. Con bò khoang  ưỡn đầu lên rặn đẻ, nước dịch chảy ra ướt đẫm phía sau, một cái bọng chui ra từ chỗ ấy, nước lầy nhầy chung quanh. Ông bố Ly kêu cô đưa cho  cái xô nhựa, lấy tay bấu vào cái bọc, nước trong bọc vàng như nước chè òa chảy vào xô. Hàng tháng nay ông đã đi hỏi mọi người cách đỡ đẻ cho bò nên ông làm việc ấy có vẻ thành thạo.  Những người nuôi bò truyền nhau rằng phải lấy cái nước ấy cho con bò uống thì nó đẻ mới nhanh, vậy nên ông bố Ly cứ ấn cái xô vào miệng con bò trong khi nó chỉ chịu thè lưỡi liếm rồi lại ngẩng đầu lên mà rống. Ly sốt ruột và lo lắng đứng sau, bỗng thấy hai khúc chân như hai cái que củi khẳng khiu thò ra thì vui mừng reo lên:
          - A, nó đẻ rồi bố ơi.

          Ông bố Ly quăng cái xô sang bên, chạy vội lại, xắn tay áo lên rồi nắm lấy hai cái chân kéo nhẹ. Rất nhẹ và từ từ cái đầu rồi đến cái mình con bê thòi ra, rồi cả con bê trơn tuột rơi đánh huỵch xuống đất. Vừa làm xong một công việc nặng nhọc và đầy ý nghĩa, con bò mẹ mệt mỏi nhưng thỏa mãn quay lại thè lưỡi thong thả liếm con. Ông bố Ly cuống cuồng gọi :
          - Chạy vào lấy cái đèn pin ra đây, nhanh lên.
          Ly chạy nhanh như một làn gió, mang chiếc đèn pin ra đưa bố. Ông ngồi xuống, một tay nhẹ nhàng nhưng dứt khoát lật con bê, một tay soi sát đèn pin vào phía dưới, thấy một cái ngẩu pín bé tí nổi lên ở bụng con bò non. Ông đứng phắt ngay dậy, điên tiết quăng luôn cái đèn pin trong tay ra gốc khế, đèn tắt ngấm. Ông chán nản bỏ vào nhà, để Ly đứng một mình bên cạnh con bò vẫn điềm nhiên liếm cho con, nó không phải là người để có thể hiểu được cái hành động hắt hủi vừa rồi của ông chủ nó. Ở Thung Củ này cho đến bây giờ, nếu người đẻ con trai thì được trọng, đẻ con gái thì bị khinh, ngược lại bò đẻ thì người ta trọng cái khinh đực. Trước cái kết cục không được chờ đợi này, Ly đứng buồn bã thẫn thờ một lúc rồi cũng thất vọng đi vào, trong lòng  thật ái ngại cho con bê non. 
          Ngay sáng hôm sau con bê lập tức bị đem bán cho người ta làm thịt, nó được người mua nhét vào một cái lồng sắt mắt cáo, bốn chân thò ra ngoài như bốn cái chân bàn, cả cái lồng được buộc lên xe máy chở đi.  Tiền bán con bê chỉ được hơn một triệu, một triệu vào nhà Ly khác nào như gió vào nhà trống, chẳng bõ bèn gì. Với một khoản lớn tiền nợ, nợ công ty bò sữa tiền mua bò giống, nợ hàng xóm tiền phối giống, tiền mua thức ăn, nợ họ hàng tiền mua thuốc cho vợ, ông bố Ly không nhắc thì Ly cũng tự hiểu rằng nó phải thôi học. Ly không buồn, chỉ thấy có một niềm luyến tiếc cứ dâng trào. Ở Thung Củ, chuyện học sinh bỏ học cũng là chuyện bình thường, học ở phổ thông còn không đủ tiền đóng học phí lấy đâu ra mà theo lên cao nữa, trước sau đằng nào chẳng phải thôi.  Ấy vậy mà đã có lúc Ly mơ ước được theo học đến cùng, cô tin chắc mình sẽ thi đỗ vào trường Đại học Sư phạm Hà Nội và trở thành cô giáo dạy văn. Ly đã để dành tiền mua hàng chục cuốn sách văn học, một tủ sách con con nhưng hiếm có đối với lũ học sinh phổ thông bây giờ, trong đó phải kể đến “Thép đã tôi thế đấy” của Ni-cô-lai Oxtrop-xky, “ Giên E-rơ” của Sác-lốt Brôn-ti và ba cuốn truyện tuổi học trò của Nguyễn Nhật Ánh là “Cửa sổ Win-đâu”, “Bong bóng lên trời” và “Bồ câu đưa thư”. Ly đọc những cuốn sách này từ từ vào những lúc rỗi, không nhanh nhưng nghiền ngẫm, thích thú để cho trí tưởng tượng bay bổng vượt qua lũy tre làng, đưa nó vào cuộc sống khó khăn nhưng đầy chất lãng mạn của người sinh viên. Nay thì thôi rồi, nay thì nhà nó không thể làm gì mà có ngay ra cái số tiền không thể nào có là vài chục triệu đồng để trang trải nợ nần, số tiền mà đáng lẽ một con bê cái có thể gánh đỡ một phần lớn. 
          Ly quyết định làm đơn xin thôi học đúng vào lúc mà các trường đang chuẩn bị năm học mới. Lúc ấy đã gần tháng chín, bầu trời mùa thu trong vắt và hoa tóc tiên nở hồng rực trên những bãi cỏ xanh. Ly gọi hoa tóc tiên là hoa báo mưa vì mỗi lần hoa nở nhiều như vậy là y như mưa sẽ đến. Nó hái những đóa hoa trông giống như một bông sen tí xíu ấy về cắm vào cái cốc nhỏ để bên đống sách giáo khoa lớp mười một rồi ngồi ngắm. Người chị họ học trên Ly một lớp đã cho nó toàn bộ sách giáo khoa lớp mười một, nay số sách này ế rồi. Ly nghĩ đến thằng Tuất, nếu nó chưa mua thì cho lại nó. Thằng  Tuất là người cùng thôn, học cùng lớp với Ly từ năm năm nay, một thời gian đủ để chúng nó gắn bó với nhau theo cái kiểu tình yêu học trò. Giữa hai đứa có cái gì giống như thần giao cách cảm cho nên khi Ly vừa nghĩ tới Tuất thì nó đã xuất hiện ngoài cổng.
          Tuất không vào nhà mà đứng ở ngoài ngõ, dưới gốc xoan, chỗ có những đốm nắng sớm lọt qua tán lá đang rung rinh nhảy múa như những cách bướm được tạo thành bởi ánh sáng. Những cánh nắng ấy cũng sáng lấp lánh trên đầu, trên vai Tuất, tỏa lên mặt nó một vẻ rạng rỡ và khỏe khoắn của tuổi trẻ. Đây là chỗ Tuất đứng đợi Ly, hầu như không thay đổi từ mùa này sang mùa khác, bất kể trời nóng hay trời lạnh, chỉ trừ những lúc mưa, hễ Ly từ trong nhà chạy ra thì thằng Tuất đã đứng đấy, ban ngày thì cùng đi lên trường, tối thì cùng đi sinh hoạt thanh niên.
          Có ít đứa học sinh trung học mà lại to cao như Tuất. Cái áo nó mặc có vẻ bao giờ cũng chật, bao giờ cái cúc ở cổ cũng bật tung ra nên bao giờ trông nó cũng như để phanh ngực trong khi cái quần nó mặc bao giờ cũng ngắn một gấu, thành thử thầy chủ nhiệm thường phải nhắc nó ăn mặc cho nghiêm chỉnh. Thầy chủ nhiệm nhắc vậy thôi, là để cho nó có ý thức, chứ còn thầy vẫn biết rằng đối với Tuất thì hoặc là phải luôn có những bộ quần áo thật rộng, hoặc là cơ thể đang phát triển của nó sẽ đòi phá tung cái sự gò bó của những bộ quần áo chưa mặc đã chật.
          Tuất cất tiếng gọi Ly với giọng ồm ồm của chàng trai đang vỡ tiếng, đồng thời tay nó khoát một vòng rộng, động tác hoàn toàn dư thừa chứng tỏ nó đang trong thời kỳ chân tay không yên.
          - Ly ơi, có nhà không ?
          Ly chạy ra. Tuất ngạc nhiên hỏi :
          - Sao mày lại mặc áo đồng phục hôm nay ?
          Nắng thu cũng đang tỏa sáng trên chiếc áo đồng phục học sinh màu trắng làm cho mái tóc phủ ngang vai lấp lánh đen láy, đôi môi học sinh đỏ mọng như hai cánh hoa mảnh mai xinh xắn gắn trên khuôn mặt có nước da trắng hồng, lúc này trông Ly hoàn toàn không có dáng một cô gái nhà quê chăn bò. Từ chiếc áo thoảng lên mùi băng phiến, chắc chiếc áo đã nằm im trong suốt cả mùa hè nóng nực. Ly bảo :
          - Tao đang chuẩn bị lên trường, mày có đi với tao không ?
          - Lên trường làm gì bây giờ ?
          - Nộp đơn xin thôi học.
          Tuất lại huơ tay một cái, lần này là cái huơ tay của sự ngạc nhiên đang tăng lên, mắt mở to nhìn Ly như vừa chứng kiến điều gì rất lạ lùng :
          - Mày nói cái gì ấy nhỉ, xin thôi học á, ngôn ngữ hôm nay nghe bất thường quá ?
          - Đáng lẽ con bò nhà tao mà đẻ ra con bê cái thì may ra tao còn được đi học tiếp, nhưng mà nó lại cho ra con bê đực. Giống đực chúng mày chán chết,  thật không đáng một xu ! Thôi, có ra trường với tao hay không ?
          - Đi bằng cái gì ?
          Ly cười, khoe ra hàm răng đều tắp và trắng ánh lên dưới nắng, hai tay nó vỗ vào hai đùi.
          - Đây này, xe căng hải chứ còn xe nào, hỏi rõ vớ vẩn !
          - Thế thì để tao chạy về mượn ông già cái xe đạp.
          Tuất chạy thật. Nó chạy một mạch khoảng hai cây số từ nhà Ly về nhà mình lấy chiếc xe đạp Nhật của ông bố nó rồi cắm cổ đạp xe quay trở lại đón Ly. Hai đứa đèo nhau đi trên con đường đất đỏ quen thuộc, con đường mà chúng nó đã đi về cùng nhau từ năm lớp năm, Tuất thuộc từng ổ gà, từng vũng trâu đằm nên mới hỏi Ly :
          - Mày có đố tao nhắm mắt mà vẫn đi được không ?
          Ly đấm thùm thụp vào lưng Tuất :
          - Thôi, ông tướng ạ, cẩn thận không lại cho nhau xuống ruộng bây giờ.
          Tuất cười khì  :
          - Ruộng mùa này khô, sợ “điếu” gì.
          Ruộng lúa hai bên đường đã xậm hạt, lúa chín không đều tạo thành một chiếc thảm chỗ vàng chỗ xanh trải rộng vào đến tận lũy tre, chỉ khoảng một tháng nữa là người dân ở bên trong những lũy tre ấy sẽ gặt lúa về. Gió vớt lấy và mang theo mùi thơm của cốm tỏa ra từ cánh đồng lúa đang chín. Đã xuất hiện mấy con chèo bẻo màu đen đậu giăng hàng trên dây điện bắc ngang qua cánh đồng. Tiếng líp xe kêu rè rè như một bản nhạc đều đều vui tai làm cho hai đứa học trò thêm phấn khích. Đến chỗ lên dốc, Ly hỏi Tuất :
          - Có mệt không ?
          Tuất đùa cợt, hổn hển trả lời :
          - Vưỡn phình phường !
          Khi đến trường,Tuất đứng ngoài đợi, để Ly một mình đi vào. Bên trong đã có từng tốp học sinh đang lao động, chúng nó quét sân trường bụi mù, vừa quét vừa trêu chọc nhau chí chóe. Trước cổng trường có hai cây phượng vĩ, thân cây vạm vỡ đầy nhựa sống, đứng đối xứng nhau như hai người lính gác trẻ trung. Tuất dựng xe vào gốc cây, rờ tay lên cái cây mà nó và cái Ly cùng mấy đứa ở lớp đã trồng từ năm lớp năm, lúc ấy thân cây mới chỉ to bằng cổ tay khẳng khiu của cậu học trò hơn mười tuổi. Mãi đến một ngày đầu hè năm lớp chín, khi lũ ve sầu kêu ra rả và đái ướt các gốc cây, từ trong lớp học cái Ly bất chợt kêu rú lên vì nhìn thấy những chùm hoa đầu tiên ngập ngừng đỏ. Vậy mà đến mùa hè năm lớp mười thì hoa đỏ đã phủ rợp ngọn cây, hai cây phượng vĩ đỏ hoa chẳng khác nào hai lá cờ đỏ vĩ đại gợn sóng bay trước cổng trường.
          Trong lúc đứng đợi Ly, Tuất nghĩ hai cây phượng đứng thành đôi ở cổng trường cũng giống như Tuất và Ly ngần ấy năm học cùng lớp, nay Ly bỗng dưng thôi học chẳng khác gì người ta đem bứng đi một cây. Tuất không có năng khiếu về văn như cái Ly, nó học môn gì cũng ở mức trung bình, riêng văn chỉ được trung bình kém, tuy nhiên đôi khi những so sánh của nó lại rất giàu hình ảnh và sống động như thế. Đợi một lát thì Ly đi ra, trông buồn thiu.
          - Gặp đúng cô chủ nhiệm, cô Diệp ấy, cô cứ gặng hỏi vì sao.
          - Sao mày không bảo cô ấy là tại con bò !
          - Giờ mà vẫn còn đùa được à ? Đang buồn thối ruột đây.
          - Thôi học sướng bỏ mẹ còn kêu thối !
          - Hoàn cảnh thì mới phải thôi học chứ sướng cái gì. Tao nghỉ học, thừa ra tập sách giáo khoa lớp mười một, mày có lấy  tao cho ?
          Tuất trả lời dứt khoát, y như cái việc từ chối này  đã được nó chuẩn bị từ trước :
          - Không lấy.
          - Sao thế, có rồi à ?
          - Chưa có.
          - Thế sao không lấy ?
          - Tao cũng thôi học luôn !
          Ly đứng sững lại, trân trân nhìn Tuất, đôi mắt mở tròn xoe, trong veo như nước hồ Bơn, cái hồ tự nhiên có nước trong biếc nằm bên đường tới trường. 
          - Mày đùa à ?
          - Không đùa, thật một trăm phần trăm luôn.
          - Sao bỗng dưng lại thôi học, có điên không ?
          - Điên đấy ! Mày nghỉ học thì tao đi học làm “điếu” gì, nghỉ luôn cho vui.
          Đã quen với tính cách bốc đồng của bạn, Ly nhận thấy thằng Tuất đang nói thật và biết nó đủ mức lì lợm để làm thật. Cô bực tức :
          - Một đứa đã phải thôi thì một đứa phải cố mà học chứ, mày nghĩ cái kiểu gì lạ vậy ? Muốn thôi học thì sao không vào nộp đơn đi !
          - Làm đơn xin học chứ ai làm đơn xin thôi, vô duyên. “Tốp” lại, không phải bàn chuyện này nữa, quyết rồi. Bây giờ mình đi chơi để kỷ niệm ngày hai đứa cùng thôi học.
          Ly xịu mặt xuống vì trong lòng bỗng trĩu nặng một nỗi buồn, một nỗi buồn có nguồn cớ chứ không phải “tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” ! Bạn bè chơi với nhau nên Ly biết rõ  Tuất, ở nó thỉnh thoảng lại có một hành động bất ngờ như thế. Tuy nhiên, lần này cái quyết định bất thình lình của Tuất táo tợn quá, và lý do, theo Tuất nói, lại bởi Ly. Nếu thật sự nghỉ học vì Ly thì Ly sẽ áy náy đến bao giờ ! Ly muốn tìm lời thuyết phục nhưng bao nhiêu ý tứ còn đang rối loạn trong đầu thì Tuất đã giục :
          - Sao còn đứng ngây ra đấy, đi thôi !
           Ly nhảy lên poóc-ba-ga ngồi như người không hồn. Nó hỏi Tuất :
          - Đi đâu ?
          - Thì cứ đi, lang thang thế này thôi, mày không thích à ?
          Ly thích tuy nó không trả lời. Đây là lần đi chơi lang thang đầu tiên của hai đứa.  Thường vẫn bên nhau, khi đến trường, khi học nhóm, khi sinh hoạt chi đoàn, nhưng đi lang thang riêng hai đứa thì chưa bao giờ, vậy nên, không nói ra nhưng cả hai đều thích. Mới vừa quyết định thôi học mà chúng nó đã thấy như được sổ lồng, kể từ nay sẽ rũ bỏ mọi lo âu về những thuộc bài hay không thuộc bài, điểm cao hay điểm thấp, nhất là nỗi lo ê chề đến kỳ mà chưa có tiền đóng học phí. Chính là với tình cảm ấy mà Tuất đèo Ly lang thang từ trường ra tới đường đi lên Tản Lĩnh, ở đây nhiều quán hàng đã mọc lên với những tấm biển ghi dòng chữ to đùng màu đỏ “Sữa tươi Ba Vì”. Thỉnh thoảng xen giữa những tấm biển quảng cáo sữa tươi ấy là tấm biển màu đỏ chữ vàng ghi ba câu cộc lốc “Mua bán đất”, ô tô con và xe máy ra vào có vẻ nhộn nhịp hơn hẳn những nơi chỉ bán sữa không.
           Đến gần trưa bụng đói réo lên ùng ục, Ly níu áo Tuất :
          - Mày có đói không, tao đói lắm rồi.
          - Tao cũng đói, đèo mày nặng bỏ mẹ nên càng đói.
          - Bây giờ có cái gì mà ăn nhỉ, tao có năm nghìn đây.
          - Tao có mười nghìn, cộng vào được mười lăm nghìn, tốt chán !
          Chúng nó dừng lại ở một cái quán mà đập ngay vào mắt là hình ảnh một con bò sữa đen khoang trắng với bộ vú đồ sộ đang nhe răng cười trên tấm biển quảng cáo khủng. Tuất lẩm bẩm “lại bò !”. Cô bán hàng thấy có khách liền đon đả chạy ra kéo ghế nhựa màu xanh mời chúng nó ngồi, khi Tuất hỏi có gì ăn không cô bèn bê ra một rổ bánh còn nóng.
          - Bánh tẻ chị mới lấy ở chợ Mía đây, ngon lắm, các em ăn đi.
          Ly dè dặt hỏi :
          - Bao nhiêu tiền một chiếc hả chị ?
          - Có 3 nghìn thôi, ăn đi, không tiếc đâu.
           Thằng Tuất gọi 4 cái, mỗi cái 3 nghìn,  bốn cái 12 nghìn rồi quay ra cười với cô bán hàng :
          - Còn ba nghìn chị cho nốt rượu ra đây.
          Nhìn mồ hôi hạt lăn từ tóc mai xuống má thằng Tuất và cái cổ áo ngực của nó phanh ra, Ly đưa mắt lườm nó, ngán ngẩm ca thán :
          - Khiếp, tí tuổi đã nốc rượu !
          - Mày không biết à, không rượu thì làm sao mà thành trai Thung Củ được !
           Ly nhẹ nhàng bóc bánh, tách ra từng lớp lá chuối như bóc bánh chưng, chiếc bánh tẻ đặc sản của Sơn Tây có màu trắng ngần, nhân bánh làm từ thịt băm mộc nhĩ xào hành mỡ thơm tho và béo ngậy. Nó để nguyên chiếc bánh ngon lành trên miếng lá chuối mỏng đưa cho Tuất rồi mới bóc cái khác cho mình. Đối với học trò nhà quê, như thế cũng là một bữa sang, sang mà vui. Thoáng cái thằng Tuất đã xơi hết hai chiếc, Ly bẻ nửa phần chiếc bánh còn lại của nó đưa cho Tuất, anh chàng cầm lấy, cười khì khì. Tuổi trẻ nó thế, vui thì quá ngọ mà buồn thì không quá mùi, buồn một lúc rồi vui, vui như gió, buồn như đám mây bay, quên buồn ngay được. Xong bữa, Ly bảo Tuất :
          - Mày có mệt để tao đèo cho một quãng.
          Tuất bĩu môi :
          - Ai để mày phải đèo, điên à !
          - Sĩ diện ! Tránh ổ gà ra, đừng để thủng lốp bây giờ không còn đồng nào đâu. Này, thế mày định nghỉ học thật à ?
          - Thật !
          - Nghỉ học thì mày làm cái gì ?
          Rất nhanh Tuất quay hỏi lại :
          - Mày làm gì ?
          - Tao nuôi bò vắt sữa, theo con đường của anh hùng nuôi bò Hồ Giáo.
          - Còn tao á, thiếu gì việc, đi phu hồ, vào khu du lịch chụp ảnh thuê, cùng lắm theo ông Đại đi bẫy chim, lăn lộn như Pa-ven Coóc-xa-gin tronbg cái tiểu thuyết mày cho tao mượn ấy chứ !
          Tuất đã kể ra những công việc mà phần lớn trai làng đang theo, trong những việc ấy nó thích nhất đi bẫy chim. Đã quá năm mươi tuổi, ông Đại tuy gầy gò nhưng dẻo dai, nước da phơi nắng đen bóng, mắt nhìn bao giờ cũng nheo nheo khiến cho đuôi mắt hằn rõ những vết chân chim. Người ta vui đùa gọi ông là “Đại du”, mỗi lần vác sào vác lưới đi là ông xách về từng xâu hàng chục con chim ngói béo hú. Cho tới bây giờ, người trong thôn Tuất chỉ phục duy nhất có ông Đại, tôn ông là bậc cao thủ trong làng săn chim, đã vài lần dám bỏ học theo ông đi bẫy.
          - Chỉ được cái bốc phét là giỏi !
          - Còn gì nữa, có phải cứ đi học rồi mới nên người đâu. Nghe này, Trần Đức Tuất này là thép đấy, thép chưa tôi đã thế, hãy đợi đấy, hê hê !
          Ly bám chặt lưng Tuất khi xe đổ dốc, tiếng líp xe lại reo trên con đường đất đỏ, bụi đỏ cuộn lên từng lớp mỏng sau xe, hoa báo mưa tươi hồng lác đác nở hai bên đường, gió mùa thu rời rợi thổi tung mái tóc. Ngồi đằng sau, trong những ngọn gió thổi vào mặt, Ly vô tư ngửi thấy có mùi mồ hôi chua chua từ người Tuất phả ra. Hơn bao giờ hết, chính lúc này đây, khi mà trong lòng cô chứa chất đầy luyến tiếc đối với ước mơ một ngày nào đó sẽ bước vào trường đại học, cái ước mơ vừa mới đổ vỡ đây thôi, Ly phát hiện ra và cảm nhận thật rõ ràng là Tuất đang chia sẻ với cô, san vợi đi cho cô bao nhiêu nỗi niềm, làm cho cuộc sống của cô, ở cái chỗ ngoặt này, cũng không phải là không tươi đẹp.  Chẳng mấy chốc chúng nó đã về đến dốc Thung Củ, từ đây nhìn về thôn thấy rõ một rặng xoan vẽ lên nền trời những nét đồng quê yên bình, xa hơn nữa là dãy núi Ba Vì xanh đậm và hùng vĩ.





Chương 2.

          Một chiếc xe máy pơ-giô màu đỏ cũ kỹ chạy trên đường vào Khoang Xanh, bánh xe đè lên những đám rơm màu vàng ươm do người dân trải ra đường phơi nắng. Người ngồi trên xe mặc quần áo bộ đội cũ, trông cũng cũ kỹ như chiếc xe, đầu đội một chiếc mũ bảo hiểm to quá khổ màu đỏ, người và xe hài hòa làm nên một cảnh tượng kì dị hiếm thấy ở con đường đầu thôn vắng vẻ, cho nên, khi cái cảnh tượng kì dị ấy vừa xuất hiện thì trẻ con đã kéo nhau chạy đuổi theo, miệng hò hét :
          - A, ông Hà Nội chúng mày ơi, ông Hà Nội ơi !
          Tụi trẻ con chỉ dừng lại khi “ông Hà Nội” rẽ vào một cái ngõ nhỏ, ở đấy ông bà Triệu đang đứng đợi. Bà Triệu, một người đàn bà nửa tỉnh nửa quê, mặc chiếc áo cánh cộc tay màu hạt dẻ để lộ ra đôi cánh tay mập mạp phốp pháp, đỡ lấy chiếc mũ màu đỏ “ông Hà Nội” vừa tháo từ đầu ra.
          - Chào ông Điển, ông nhà tôi ra vào ngóng từ rõ sớm. Ông đi đường có mệt không ?
          - Cứ chớm vào Khoang Xanh là khỏe khoắn hẳn lên, có bao giờ về nhà ông bà mà thấy mệt đâu.
          Ông Triệu ra đón bạn, chân ông không nhấc cao lên được nên chỉ bước những bước ngắn chậm chạp, tay trái ông đỡ tay phải ông mà vẫn run, trông ông rõ ra là người bị bệnh liệt rung. Nhìn ông Triệu đứng cười cười, ông Điển vui vẻ nói đùa :
          - Run rẩy thế mà vẫn ra đón tận cổng cơ đấy, té ra ông hơn tôi ở chỗ có bà ý trông nom nhưng lại không được cứng chân khỏe tay như tôi.
          Ông Điển và ông Triệu là bạn chiến đấu những năm tháng tuổi trẻ, là đồng đội ở chiến trường K, tức là chiến trường Campuchia vào những năm 1979 đến 1989. Miếng sẹo đỏ óng như một miếng cao su nhăn nhúm dán trên má phải của ông Triệu là chứng tích còn lại của một cú đẩy người đồng đội, tức là ông Điển, tránh khỏi đường đạn B40 của tụi lính áo đen Pôn Pốt. Cú đẩy mạnh ấy làm ông Điển ngã sấp xuống trong khi cái lưỡi hái thần chết như một luồng phụt đỏ lừ và nóng rẫy xẹt ngang má ông Triệu, để lại ở đấy dấu vết kỷ niệm chiến tranh. Sau này, mỗi khi nhìn mặt người đồng đội méo đi khi vui cười, ông Điển không khỏi nhói tim xót xa, niềm xót xa đầy ân nghĩa đối với người đã nhận lấy vết sẹo ấy để giành lại mạng sống cho mình. Trận mạc với những hy sinh mất mát ở một đất nước xa lạ đã gắn bó họ sống chết có nhau, về sau trở thành một cặp cựu chiến binh luôn cặp kè bên nhau, không phải lại để đánh nhau với một kẻ thù nào mà để được thỏa sức “chém gió”,  hễ lâu lâu mà không gặp nhau thì họ khó chịu lắm. Là đồng đội, họ chia sẻ với nhau mọi chuyện, gia đình, con cái, và nhất là những bức xúc xã hội. Tuy nhiên có một cái không đồng là bệnh, mỗi ông một bệnh. Ông Điển còn khỏe, vẫn đi làm, nhờ trời chỉ viêm họng sổ mũi, đau nhức xương cốt, người có tuổi ai chẳng thế. Ông Triệu sau khi  xuất ngũ vì mất sức ít lâu bỗng sinh ra cái bệnh run, chân tay lúc nào cũng lẩy bẩy, đi khám bác sĩ bảo đấy là bệnh pắc-kinh-sơn, tiếng ta là bệnh liệt rung, uống thuốc chỉ đỡ chứ vô phương cứu chữa. Được cái người chiến sĩ đã giơ má ra nhận lấy đường đạn thay cho bạn lại luôn lạc quan, bệnh thì bệnh chứ kệ mẹ nó, không đuổi được bệnh đi thì sống chung với bệnh, cần quái gì. Ông Điển bảo như thế gọi là lạc quan cũng được mà gọi là AQ cũng được, thế nào cũng được, thiên hạ bây giờ lẫn lộn giữa AQ với lạc quan nhiều lắm. Ông Triệu lại bảo ừ thì thế nào cũng phải, chẳng phải là bảy mươi thì nghe cái gì cũng thuận tai đó hay sao, miễn là cái “bắc-kinh-sơn” ấy đừng có tiến triển nữa. Hai ông bạn già gặp nhau lúc nào cũng vui vẻ như thế, thường thì chuyện này xọ qua chuyện kia, dây cà ra dây muống, lúc thì nghiêm túc, lúc thì trêu chọc nhau. Riêng lần này ông Triệu tỏ vẻ u uất không  vui, ông Điển vẫn nhạy bén cảm thấy điều đó nên hỏi ngay :
          - Chắc ông lại có tâm sự ?
          - Phải rồi, đầy một đống, đang muốn trút bớt sang cho ông.
          - Tôi cũng đoán ra được một phần, lại cái vụ đất dự án mà ông nói độ trước ấy chứ gì ?
          - Vụ ấy đã xong, giấy tờ đền bù tôi ký hết rồi, tiền tôi cầm đây rồi mà cứ bâng khuâng thế nào ấy, nhiều lúc như loãng trí không biết mình đang nghĩ cái gì. Bỗng dưng thấy tiếc, tiếc lắm, ông không hình dung được thế nào đâu.
          -  Có gì mà không hình dung được, giống như tôi mất cái nhà hồi đổi tiền ấy chứ gì. Chiều tối hôm trước nó đến nói ngon nói ngọt đòi mua  bằng được, mình xiêu lòng bán cho nó, sáng hôm sau đổi tiền đánh cái rụp, thế là cả cái nhà còn được hai chỉ vàng, tiếc ngẩn tiếc ngơ mãi.
          Ông Triệu hấp háy mắt nhìn nắng vàng hoe đổ xuống sân, nói giọng thẫn thờ của người vừa mất của :
          - Thế đã thấm gì. Hàng mẫu vườn đất đồi núi của mình bỗng dưng thành của người ta, vẫn cây cối ấy, ao chuôm ấy mà bỗng ra thành xa lạ với mình. Tiền cầm về mất giá hàng ngày, từ hôm nhận tiền về tôi cứ như nhà kinh tế bất đắc dĩ, hôm nào cũng theo dõi giá đô la, giá vàng lên xuống ra sao.
          - Anh lính quèn bỗng trở thành người giàu có khác – Ông Điển như muốn chọc tức bạn - Khiếp thật !
          - Chưa hết đâu, còn chuyện cái thằng Tuất nữa mới là vấn đề. Con em nó vừa thi vào Đại học sư phạm ngoại ngữ, nó chăm chỉ nên tôi không sợ. Sợ nhất là cái thằng anh nó, cái thằng Tuất ấy.
          - Có phải em nó là con Thư không ?
          - Đúng rồi, nó được cái chăm chỉ thôi chứ không xuất sắc. Còn thằng anh nó mới tệ, lêu lổng từ ngày bỏ học đến giờ. Nó thì yêu vườn tược thật đấy, cũng chịu khó trông nom con lợn con cá, nhưng đấy là lúc chưa có dự án. Bây giờ dự án rồi, lấy đâu ra vườn đất mà trông nom nữa, tôi sợ nó đi vào xã hội đen thì bỏ mẹ.
          Ông Điển khoát tay phán một câu xanh rờn :
          - Phải đưa nó đi vào xã hội đỏ chứ ông. Nếu thằng Tuất mà chịu học hành đến nơi đến chốn thì lo cho nó đi công an, con Thư đi bác sĩ, ấy mới là nhà có phúc bây giờ, cứ là vững như bàn đá.
          Nói dứt lời ông Điển mới chợt nhận ngay ra sự vô duyên của ý nghĩ vừa rồi, vô duyên ở chỗ lấy đâu ra cái nếu đó. Tuy nhiên ông cũng cao hứng cho rằng chính ông vừa đưa ra một khái niệm lạ, xã hội đỏ, để đối lập với xã hội đen mà ông Triệu nhắc tới, thế thôi, còn nội hàm của khái niệm này thế nào thì để khi có thời gian ông sẽ đi sâu vào tìm hiểu.  
          Ông Triệu giơ bàn tay run của mình lên xua xua :
          - Chỉ được cái lãng mạn hão, chẳng trách hồi ở K ông cứ hay bị phê bình về cái thiếu sót này ! Con mình vừa bỏ nhà đi sáu tháng trời, còn không biết nó đi đâu, làm gì, lấy đâu ra mà công an với xã hội đỏ !
          Gió từ cánh đồng thung lũng trước nhà thổi lên hiu hiu mát, nắng cũng vàng hoe phơi trên những thửa ruộng vừa mới gặt. Một đám mây trắng lững thững trên đỉnh dãy Ba Vì, vô tư như là ngoài việc trưng ra cái màu trắng xốp như bông thì đám mây kia chẳng có gì để phải vội vàng. Bà Triệu bưng ra một ấm chè tươi kèm một đĩa lạc luộc. Lạc mới dỡ ngọt như đòng, là của hàng xóm đem cho, ở mường ở bản thế này tuy không làm nông nghiệp thì cũng vẫn cứ mùa nào thức nấy, ngô có ngô, lạc có lạc, xóm giềng qua lại còn vui vẻ tự nhiên lắm chứ chưa như ngoài Hà Nội.
          Hai ông bóc lạc nhâm nhi, đang chuyện rôm rả thì thấy chó sủa rộ lên ngoài ngõ rồi có tiếng gọi giật giọng :
          - Ông bà Triệu có ai ở nhà không ?
          Ông Triệu nuốt vội hạt lạc đang nhai dở khiến cho cái yết hầu nhô hẳn lên, bỏ nắm lạc trên tay xuống đĩa, lật đật đi ra xem ai, hóa ra ba công an xã. Ông ngạc nhiên, đứng ngẩn ra một lúc mới cất được tiếng chào :
          - Có nhà cả đây, mời các anh vào uống nước.
          Một người không mặc đồng phục làm mất cả cái oai của hai anh công an kia gọn gàng trong bộ quần áo mầu xanh rêu. Tuy nhiên,  người không mặc đồng phục ấy, người lùn nhất trong đám lại đang tỏ ra là chỉ huy khi mà chỉ một mình anh này liên tiếp nêu câu hỏi trong khi hai người kia đảo mắt nhìn, tất nhiên là cái nhìn nghiệp vụ.
          - Anh Trần Đức Tuất có nhà không ?
          - Em nó đi vắng, không có nhà.
          -Đi đâu, ở nhà ai ?
          - Nó đi nó về lung tung, chúng tôi cũng không biết.
          - Thế là ông bà không làm tốt công tác quản lý con cái !
          Ông bà Triệu im như thóc, không biết đáp lại thế nào. Anh chỉ huy giở trong xắc-cốt đeo bên mình ra một cuốn sổ tay, lật mấy trang nhìn vào đấy, nói :
          - Hôm nay chúng tôi đến để thông báo cho ông bà biết là công an xã chúng tôi trong thời gian vừa qua nhận được ba đơn thư tố cáo có liên quan đến anh Tuất, một đơn về việc anh Tuất bán trộm của dân một cây lộc vừng lâu năm lấy năm triệu đồng, một đơn tố cáo anh Tuất trộm chó về giết thịt rồi nhậu nhẹt cùng một số thanh niên chậm tiến, có tiền án tiền sự trong xã. Nghiêm trọng nhất là đơn tố cáo anh Tuất trộm bò nhưng không thành.
          Sau khi nhấn mạnh cái tội danh trộm bò hụt của thằng Tuất, anh chỉ huy dừng lại, ngước mắt nhìn nhanh mọi người, giống như mấy ông đọc diễn văn trong vô tuyến ngước lên nhìn người nghe một tí, rồi lại cúi xuống quyển sổ :
          - Những đơn thư này đã làm ảnh hưởng đến công tác xây dựng thôn làng văn hóa mới. Qua quá trình nắm bắt tình hình và rà soát các đối tượng, chúng tôi cho rằng những vụ việc này đều xảy ra trong địa bàn xã là địa bàn quản lý của chúng tôi, là những vụ việc có hệ thống và khá nghiêm trọng nên chúng tôi quyết định triệu tập anh Tuất lên công an xã để làm rõ.
          Tuy bà Triệu không bị liệt rung như chồng nhưng nghe công an xã đọc đến đâu chân tay bà cũng run lên bần bật đến đó. Ông Triệu, cả ông Điển nữa, cứ há hốc mồm ra nghe, kinh ngạc, không tưởng tượng nổi thằng Tuất lại có thể gây ra những chuyện đối với họ là kinh trời động đất đến như vậy. Anh công an mặc thường phục nhìn bao quát mọi người rồi nói tiếp :
          - Chúng tôi đã đọc lệnh triệu tập anh Tuất,  anh ấy không có nhà thì mời ông bà nghe và ký vào đây, khi nào anh ấy về thì bảo anh ấy lên gặp chúng tôi ngay.
          - Vâng, nhất định rồi.
          Ông Triệu run tay nên cứ lóng ngóng cầm bút mà không ký nổi, cuối cùng phải nhờ đến bà. Con chó đen bốn mắt đuổi theo gâu gâu mấy anh công an đi ra ngõ bất chấp cả lời mời ăn lạc luộc và uống nước chè tươi của chủ nhà. Công an đi rồi mà ba người còn ngồi lặng, một lúc sau mới chuyện trò được tiếp.           Tai nghe mắt thấy những chuyện vừa rồi, ông Điển tỏ ra lo lắng không kém ông bà Triệu.
          - Kiểu này gay đấy, có khi phải lấy vợ cho thằng Tuất để vợ nó quản.
          - Nói mãi mà không ăn thua gì, cứ như nước đổ đầu vịt. Không học hành, không chịu khó làm việc, suốt ngày lêu lổng mà chỉ muốn có thật nhiều tiền, muốn làm giàu thật nhanh ! Tụi chúng nó bây giờ lạ thật, mình không thể hiểu nổi, chỉ có đi ăn cắp, ăn cướp của người ta thì mới giàu có kiểu ấy được.
          - Nó có năng lực gì không ?
          - Ông nói vui nhỉ, gây gổ đánh nhau là giỏi chứ năng lực gì ! Hôm qua nó dám chặn mấy thằng công nông, trấn của người ta ngót triệu bạc có tệ không !
          - Chết thật, làm thế nào mà trấn được của bọn công nông, bọn ấy rắn lắm, chẳng có câu “ra đường sợ nhất công nông” là gì !
          - Chỉ va quệt có tí tẹo nhưng chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng đấy mà. Mấy thằng công nông lạ, vô phúc gặp nó khi đang chở gạch cho người ta. Chủ nhà thuộc loại dĩ hòa vi quý, muốn cho xong chuyện nên dúi cho mấy thằng công nông triệu bạc trả cho thằng Tuất. Chuyện đang ầm lên kia, mấy ông công an  xã đã lởn vởn đi tìm thằng Tuất mà không biết nó đi đâu nên mới phải đến nhà.
          - Nó đi đâu ?
          - Ai mà biết được, đi đâu có bao giờ nó khai với mình. Đến giờ mà vẫn phải lo về con cái mệt lắm ông ạ, thật là con dại cái mang !
          Ông Điển chạnh lòng thương bạn bèn nói :
          - Hay là thế này, mình tìm cho nó cái việc gì ở ngoài Hà Nội ?
          - Mã nó ra Hà Nội thì chỉ có đi gác cổng chứ làm gì. Bằng phổ thông chưa có, vi tính vi teo chẳng biết, ai người ta mướn.
          - Đấy, ông vừa gợi ý cho tôi đấy - ông Điển reo lên như lại vừa tìm được một khái niệm gì mới - Trước tiên hãy cứ cho nó đi làm gác cổng cái đã, nhất quyết không để cho nó lêu lổng nữa. Tôi có thằng cháu quen với một người bạn là chủ của một tòa nhà chung cư, đang tuyển bảo vệ, tôi bảo cháu giới thiệu một câu là được ngay, rất phù hợp với khả năng và hoàn cảnh của thằng Tuất bây giờ. Ông thấy thế nào ?
          - Được thế thì mừng quá, nhưng không biết ý nó ra sao.
          - Thôi, câu chuyện này hãy cứ thế đã. Tôi thấy đói rồi, ở trên này ăn ngủ tốt thế đấy,  nếu về sau có dự án vàng đi chăng nữa thì ông cũng cố mà giữ lấy mảnh vườn với cái nhà này, để lấy chỗ cho hai thằng mình dưỡng già đấy nhé.
          - Đói rồi thì đi ăn thôi, hôm qua lấy được con chạch chấu, bà ấy bóp mẻ om riềng từ sáng chờ ông.
          Ông Điển hít hít mũi như đã ngửi thấy mùi thơm lừng của món chạch chấu om riềng. Trong lúc chờ bà Triệu dọn bữa, ông Điển lại đứng ngắm cảnh. Ngọn Ba Vì đang ở trước mặt ông. Dãy núi xanh thắm màu xanh thiên thu tạc lên nền trời trưa hè cái dáng vẻ oai vệ thánh thần của nó.

                                                          *
                                                       *   *

          Cuối tháng 9 năm 1999, sau một cơn bão muộn, nhẹ nhưng gây lụt hiếm khi thấy ở Ba Vì, ông bà Triệu nhận liền hai tin vui : cô con gái trúng tuyển vào Đại học Sư phạm ngoại ngữ, cậu con trai được ra Hà Nội làm bảo vệ. Ông bà trích tiền đền bù đất tậu cho cô cậu mỗi người một xe Hon-đa Uây, cô Thư thích con màu xanh, cậu Tuất thích màu đỏ. Không giống như ông Triệu với ông Điển, lũ trẻ bây giờ thích màu đỏ chỉ vì chúng cho màu đỏ là mạnh mẽ và may mắn. Lại còn mỗi đứa một cái điện thoại di động Nôi-ka nữa chứ. Chúng nó đòi bằng được, đòi như biểu tình, bởi vì, sống ở Hà Nội bây giờ mà không có điện thoại di động thì làm sao mà sống nổi. Bà Triệu ngồi tính, cả tiền mua xe với tiền điện thoại, mua sắm quần áo cho hai đứa cũng mất đứt năm chục triệu mà rợn tóc gáy, ai đời tiêu hàng chục triệu mà cứ giống như đi chợ tiêu chục nghìn vậy. Ông Triệu điềm tĩnh hơn, lý lẽ của ông là may mà còn có khoản tiền đền bù đất, nếu không lấy cái gì mà lo cho chúng. Thôi, mình không tin có số phận nhưng nó cũng tại số bà nó ạ, nhìn lên không bằng ai, nhìn xuống còn hơn khối người, đến đất cũng không có mà bán, con cái thì ban ngày đi cắt cỏ nuôi bò, ban đêm đi canh cá, ra Hà Nội làm gác cổng cũng không dám mơ chứ nói gì đến đi đại học. Bà Triệu bĩu môi bảo nói như ông thì hết cả chuyện rồi kéo ông ra tận gốc cây khế, thì thào :
          - Tôi nói ông biết thế này nhé, ông Điển đã trao đổi với tôi, chúng nó ra Hà Nội, đứa thì có tiền lương, đứa thì có học bổng, mình không phải cho tiền chúng nó nữa. Có nhiều tiêu nhiều, sinh hư !
          Miếng sẹo trên má ông Triệu đỏ lên, giật giật :
          - Cũng phải cho chúng nó chút tiền túi chứ.
          - Tôi chỉ cho thêm mỗi đứa năm trăm nghìn, hai đứa dư là một triệu, ông đừng có can thiệp vào, không chiều theo chúng nó được.
          Ông không cãi lại bà, lặng im run rẩy đi vào, đã bao giờ ông chiều con mà chạy theo chúng nó đâu.
          Hai anh em thằng Tuất hẹn nhau chọn sáng ngày 12 tháng 8 âm lịch là ngày đẹp, lại vừa trước Trung thu, để ra Hà Nôi, vậy mà đêm 11 tháng 8 thằng Tuất bỗng biến mất, tận trưa hôm sau vẫn không thấy mò về. Đến khi cái Thư sốt ruột quá định bỏ đi một mình thì bỗng nghe tiếng xe máy ngoài ngõ, nhìn ra thấy một chàng trai cường tráng cưỡi chiếc xe Uây đỏ, mặc áo ti-sớt màu đen có in một cái mặt người màu trắng ở phía trước, mắt đeo kính râm, ngực đeo lắc bạc to kềnh óng ánh, tóc vuốt ngược lên như tóc ca sĩ. Thư nheo mắt nhìn mãi mới nhận ra ông anh, nó líu lưỡi gọi mẹ :
          - Ối lèo ơi, té ra là anh Tuất !  U ơi ra mà xem này !
          Ông bà Triệu thô lố mắt như vừa nhìn thấy một người từ hành tinh khác đến. Sau một đêm Tuất đã thay đổi hẳn, thế này thì ai dám bảo nó là người Thung Củ nữa, thanh niên Thung Củ thuần những người quần nâu áo xanh,  cách đây ít lâu khi còn đi canh cá thằng Tuất cũng ăn mặc thế thôi mà sao nó sành điệu lên nhanh thế. Tuất nhăn răng cười, giơ cao tay cho người ta nhìn thấy cái đồng hồ lấp lánh sáng. Bà Triệu thấy thế mà dở khóc dở cười, buốt đến tận ruột tận gan. Bỗng dưng cả hai đứa cùng đi một lúc, người mẹ nào mà chả như con gà mái, lúc nào cũng chỉ chực xòe cánh ra ấp lấy các con, các con đi rồi thì chỉ có mà ấp bóng. Nhìn chúng nó lớn khôn bước ra với đời cũng nở nang mặt mày nhưng trong bụng thì phát khiếp, chỉ có mấy ngày mà tiền đổ vào các thứ  sành điệu kia hàng chục triệu, moi đâu ra. Ông Triệu vẫn điềm tĩnh vì ông có triết lý của ông, ông bảo phải tùy duyên, nước đến đâu bắc cầu đến đấy, ngồi mà lo sao cho xuể. Bà Triệu lại quay qua dằn vặt ông : chẳng có ai chiều con như ông, đòi cái gì cũng được.
          Thằng Tuất vẫn cười khi nghe bố mẹ lời qua tiếng lại, cười chán nó nói :
          - Thầy u thì lúc nào cũng tiền ! Khỏi lo đi, toàn là tiền con đi vay chứ có xin thày u đâu. Rồi đây con làm ra khối tiền, hôm qua đi xem, cô nói tuổi Nhâm rồi cứ mà tiêu nhọc. Cứ đợi đấy !
          Đấy lại là một câu chọc tức bà Triệu.
          - Tiên nhân anh, tu tỉnh mà làm ăn chứ trông mong gì, không nghe lời thày u lại đi nghe cô với cậu nào, thật là cá không ăn muối cá ươn, con không nghe lời cha mẹ trăm đường con hư, chẳng sai tí nào !
          Nó lại cười, răng nó trắng nhởn ra thế kia, trắng như cái hàm răng  quảng cáo trên tuýp thuốc đánh răng Đác-li. Rồi Tuất vừa cười vừa nói :
          - Thầy u lạc hậu rồi, cả ngày cứ ngồi ở Thung Củ mà lo gần lo xa thì làm sao mà phát triển lên được. Thời buổi bây giờ phải hành động chứ.
          Ông Triệu chột dạ. Đấy cũng là cái điều ông nghĩ, ông đã trao đổi với ông Điển về cái ý này, hai ông cũng đồng quan điểm rằng các ông đã lạc hậu, rằng thời buổi bây giờ là thời buổi hành động, nhưng hành động thế nào mới là câu hỏi của các ông đặt ra. Những ý này chưa bao giờ đem ra chuyện trò với Tuất, vậy mà nó cũng nghĩ thế, nó lại nói thẳng ra với ông. Chúng nó thẳng thắn chứ không quanh co, các ông  không mấy khi nói thẳng tuột được ra cái ý nghĩ của mình.  Đang mải nghiền ngẫm thì đã nghe tiếng bà Triệu xoe xóe :
          - Gớm, nòng nọc chưa đứt đuôi đã đòi làm cậu ông giời ! Có lạc hậu thì cũng đẻ ra các anh các chị, nuôi các anh các chị  ăn học cho lắm vào rồi quay lại chê chúng tôi lạc hậu. Rõ nỡm !
          Con Thư chen vào :
          - Anh rõ là…Đang yên lành chuẩn bị đi thì lại lắm điều, để thầy u lôi cả em vào. Học hành đã chả chịu…
          Thằng Tuất lại cười, cái miệng cười làm khuôn mặt nó rạng rỡ ra, mặt ấy ai mà giận được. Ông Triệu tự hỏi không biết lúc nó gây gổ với tụi công nông thì nó có cười như thế không. Nó vừa cười vừa nói với Thư :
          - Chịu làm sao ? Cô cứ biết lo lấy cái thân cô đã nhá, tốt nhất là lừa được đứa nào giàu có lấy làm chồng cho thầy u vui.
          Bà Triệu giục :
          - Thế các anh chị có định đi không, hay là lại đợi đến mặt trời lặn rồi mới cuống lên ?
          Tuất nói :
          - Vội gì u, nếu không phải vừa đi vừa đợi cái Thư thì 60 cây số con chỉ làm một tiếng là đến nơi.
          Bà Triệu lập tức lo lắng :
          - Đi lấy chết hay sao mà đi nhanh như thế, hôm qua vô tuyến vừa nói một ngày có mấy tai nạn giao thông trên đường Láng Hòa Lạc, xe cộ đi lại tứ tung hỗn độn lắm.
          Ông Triệu thêm vào :
          - U mày nói phải đấy, tai nạn giao thông đang là vấn nạn.
          Thằng Tuất tỉnh queo :
          - Úi giời, chúng con bây giờ là thế hệ tốc độ, chết làm sao được.
          Nó quay sang bảo Thư :
          - Mới có điện thoại nên chẳng có ma nào gọi cho tao. Mày bấm số của mày vào đây, nhân thể chỉ cho tao cách gửi tin nhắn.
          - Đúng là quê, đưa máy đây. Thế đã tạm biệt người yêu chưa ?
          - Cả tối hôm qua rồi.
          Ông Triệu giục :
          - Chúng mày nhanh chóng lên mà đi, đã hẹn mà đến muộn thế nào bác Điển cũng sốt ruột. Ở nhờ nhà người ta mấy ngày đầu thôi rồi nhanh chóng tìm lấy chỗ, đừng quấy quả người ta nhiều quá.
          - Có thế mà cứ giục cuống lên. Được rồi, con đi đây, thầy u ở nhà bảo trọng nhé.
          Nói rồi hai đứa hai xe vút đi, chúng nó đi mà không ngoái đầu nhìn lại, không giống như những người trong phim lúc đi xa đều ngoảnh lại lưu luyến nhìn phía sau. Ông bà Triệu đứng ngẩn ra rồi quay sang nhìn nhau, bà bảo kể ra muộn thế này rồi thì giữ chúng lại ăn cơm chiều, sáng mai đi cũng được. Đấy, có quả mít dai vườn nhà bảo chúng chở đi biếu ông Điển nhân ngày rằm tháng Tám mà chúng cũng chẳng thèm để ý, quả mít này ngày mai chín, mời cả xóm đến ăn không hết. Ông Triệu kéo cái ghế nhựa ra gốc cây khế ngồi trông về núi Ba Vì, tay cầm cái quạt nan phe phẩy. Trông ông ngồi điềm tĩnh, chẳng ra người tư lự cũng chẳng ra người “xăng xu-xi”. Quả vậy, ông chỉ đang nghĩ bữa cơm chiều nay chỉ còn  có hai ông bà, bỗng cái chỉ còn có hai ông bà, ông dọn cơm sẽ chỉ sắp có hai đôi đũa. Cái hồi thằng cả đi xuất khẩu lao động, ông còn tại ngũ, bà còn có anh em thằng Tuất cái Thư, cũng chẳng thấy gì là buồn là lo. Bây giờ tay ông phe phẩy quạt có vẻ điềm tĩnh lắm nhưng mà trong lòng đang xao động, té ra cuộc đời là thế này, lớn lên lấy vợ lấy chồng, sinh con đẻ cái quấn túm sum vầy cho đến lúc chúng nó trưởng thành thì mỗi đứa đi một ngả. Ông Triệu ngồi bâng khuâng, mắt đắm đuối nhìn cánh đồng dưới thung lũng lúa đã gặt hết còn trơ dạ màu vàng, bên kia thung lũng là rừng thiêng núi thiêng đã ngả sang màu lam chiều. Ông thầm khấn các vị thần thánh núi rừng phù hộ cho các con ông được hanh thông mọi việc. Bà Triệu mang cho ông bát nước chè tươi nóng, đứng sau gọi ông hai lần ông không nghe, bực quá quay đi, miệng lẩm bẩm rõ ra người vô tích sự.


 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét