Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2019

NGỤ CƯ, tiểu thuyết của THĂNG SẮC, chương 3 và 4

NGỤ CƯ
NXB Hội Nhà văn, 2017


Chương 3

Mùa khô năm 1983, tiểu đoàn bộ binh 194 bộ đội tình nguyện được lệnh cùng các đơn vị khác nhanh chóng cơ động đến mặt trận Bát-tam-băng tham gia truy quét tàn quân Pôn Pốt. Đêm trước hôm xuất phát, tiểu đoàn trưởng Bùi Khoai xé tờ giấy trong quyển sổ công tác viết vội mấy dòng gửi em trai Bùi Khoái, nhờ người đem về Tây Ninh bỏ bưu điện. Mỗi lúc có việc phải trông cậy người em trai, Bùi Khoai đều có đôi chút ngại ngùng bởi vì anh thường nhớ tới một kỷ niệm thời niên thiếu, cái thời suốt ngày đi mò ngao câu cá dọc sông quê, nước da rám nắng đen bóng. Hồi ấy Bùi Khoai nuôi một con sáo đá rất khôn, nhảy tí tách trong cái lồng tre, há rộng mỏ có mép vàng ra đợi người bón cào cào. Bùi Khoái rất thích, rủ lũ trẻ con cùng xóm đi vồ cào cào ở các bờ ruộng về cho sáo ăn, lóng ngóng mở cửa lồng thì con sáo bay ra mất. Cơn nóng giận của anh thanh niên tuổi bẻ gẫy sừng trâu không ghìm lại được, Bùi Khoai tức tối giơ thẳng tay tát em một cái rõ đau, có thể gọi là nảy đom đóm mắt. Lũ trẻ hàng xóm vừa mới ríu rít hoảng sợ cum cúp bỏ đi. Bùi Khoái không khóc nhưng dỗi cơm một buổi chiều. Kể từ đấy Bùi Khoai luôn áy náy, cứ nghĩ rằng Bùi Khoái vẫn còn giận mình, kỷ niệm về cái tát cứ hằn sâu nhức nhối mãi trong tâm trí của anh. Lần này viết thư để nhờ Bùi Khoái chạy ít tiền gửi về nhà, Bùi Khoai cũng thoáng ý nghĩ về cái tát, song anh lại tự bảo giờ chú ấy trưởng thành rồi, phải biết thay anh lo cho người bố ốm đau bệnh tật chứ ai còn giận dỗi vì chuyện thời trẻ con. Người lính khi bước vào trận không được nghĩ đến cái chết, nghĩ đến cái chết trước trận đánh là điều xui xẻo. Biết vậy nhưng Bùi Khoai vẫn nghĩ nếu như mình có bị hy sinh thì chắc chắn Bùi Khoái phải gánh hết phần trách nhiệm đối với gia đình. Tự nghĩ mình là một chỉ huy, cần có ý chí thép để giữ vững tinh thần cho đồng đội, Bùi Khoai cố gắng xua đuổi những nỗi vẩn vơ ấy. Để dứt ra khỏi những tình cảm nhớ nhung, Bùi Khoai chỉnh tề lại quần áo, không quên đeo khẩu súng lục K59 có cái báng đã bóng nhẫy mồ hôi tay, gọi cậu trợ lý cùng đi đến các đại đội kiểm tra, nhắc nhở chiến sĩ nghỉ ngơi lấy sức hành quân. Đám lính trẻ vẫn hút thuốc và tán dóc, vô tư như không, tuy vậy Bùi Khoai nhận thấy không ít anh cũng đang nghĩ ngợi bâng khuâng. Toàn những người chưa đánh trận bao giờ. Chính những người lính trẻ rắn rỏi này, những cuộc hành quân rầm rập xe pháo và rậm rịch tiếng chân nện đất, những cánh rừng thâm u đầy rẫy hiểm nguy nơi xứ người đã làm cho tiểu đoàn trưởng Bùi Khoai luôn thấy tràn ngập lòng yêu nước và tinh thần quốc tế, tin vào việc giúp người Căm-pu-chia là giúp chính mình.
          Các đơn vị bộ đội đến Bát-tam-bang vào giữa một trưa nắng khắc nghiệt, mặt trời mùa khô như cái mâm đồng nung nóng treo ngay trên đỉnh đầu. Tiểu đoàn của Bùi Khoai được lệnh luồn sâu vào rừng, củng cố trận địa, chốt giữ điểm cao, tìm kiếm phát hiện địch để truy đuổi tiêu diệt. Bùi Khoai bố trí theo đội hình hành tiến, đi đầu là đại đội trinh sát và công binh hỗn hợp, lặn lội hơn 40 cây số rừng rú mất 1 ngày một đêm  mới đến vị trí chốt quân. Vừa đến nơi, Bùi Khoai liền triệu tập cán bộ các đại đội về lán tạm của tiểu đoàn bộ để nắm tình hình và quán triệt nhiệm vụ. Lúc này mới khoảng 2 giờ chiều, mặt trời vẫn tiếp tục dội xuống cái nóng cuối tháng 9 thiêu đốt cây cỏ và làm cháy bỏng da thịt. Đứng trên một gò cao, Bùi Khoai cầm ống nhòm của anh vệ binh vừa đưa cho, giơ lên mắt nhìn. Bốn chung quanh anh là núi cao vây kín, rừng rậm ken dày đặc. Từ chỗ đứng của mình, trong không khí hanh hao khô rang, Bùi Khoai bụm miệng muốn ọe khi ngửi thấy rõ mùi thịt thối rữa từng chốc lại theo một cơn gió đánh về.
          Cán bộ các đại đội lục tục kéo đến trong khi anh em chiến sĩ xoay trần ra chặt cây dựng lán và đào công sự chiến đấu. Bùi Khoai chỉ một vạt đất trống bảo mọi người ngồi xuống còn mình đứng nói, tay cầm quyển sổ. Với giọng nói mạnh mẽ và dứt khoát của người chỉ huy, sau khi quán triệt đầy đủ các nhiệm vụ chiến đấu, anh hỏi :
          - Tinh thần chiến sĩ thế nào ?
          - Vững vàng. Đang vừa làm việc vừa hát tưng bừng.
          - Tốt. Các đại đội động viên chiến sĩ mau chóng hoàn thành lán trại và hầm hố, cắt cử người cảnh giới, canh gác. Do ta chưa nắm rõ được tình hình địch nên phải hết sức cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu. Trung đội trinh sát lên ngay phương án tìm hiểu khu vực lân cận, công binh dò mìn chung quanh các doanh trại, đảm bảo tuyệt đối an toàn cho anh em, hậu cần mau chóng ổn định các mặt, các đồng chí rõ cả chưa ?
          Mọi người đồng thanh hô vang :
          - Báo cáo rõ.
          - Có ai có ý kiến gì không ?
          Một cánh tay giơ lên. Bùi Khoai nói :
          - Đồng chí Hòa, hậu cần có vấn đề à ?
          - Báo cáo thủ trưởng không có ạ. Súng ống đạn dược, lương thực thực phẩm của chiến sĩ đã tập kết đầy đủ. Nhưng có chuyện…
          - Chuyện gì, nói đi chứ sao cứ ấp úng ?
          - Báo cáo thủ trưởng là chuyện nước ạ. Không có nước, anh em gom mãi chắc cũng chỉ đủ nước nấu cơm chiều.
          - Cái này quan trọng đấy. Đói cơm còn nhịn được chứ đói nước là rất khổ. Lệnh cho các đơn vị phải hết sức tiết kiệm nước. Ngay chiều nay, đồng chí Hòa cử mấy người đi cùng trinh sát, tranh thủ lùng xục xem quanh đây điểm nào có nước.
          - Rõ.
          Nghe cán bộ đại đội báo cáo thì mọi việc có vẻ đều tốt cả nhưng trong lòng người tiểu đoàn trưởng không yên. Bữa cơm chiều vừa xong, nắng đã tắt rất nhanh, bóng tối đen kịt và dày đặc của núi rừng mau chóng ụp xuống, chiến sĩ đứng gần sát nhau mới phát hiện ra những người di động chỉ như cái bóng mờ. Thời tiết đang nóng rát ngay lập tức hạ nhiệt, rừng cây lao xao đem đến những cơn gió khô và lạnh giá. Bùi Khoai đến nói với Vũ Văn Vượng, tiểu đoàn phó, chính trị viên tiểu đoàn lúc ấy đang nằm gối đầu lên ba lô trong lán tiểu đoàn bộ, miệng phì phèo điếu thuốc Giải phóng của Căm-pu-chia, khói thả ra mùi khét lẹt.
          - Đồng chí Vượng này, tôi muốn đem tiểu đội trinh sát của tiểu đoàn bộ đi lùng xục một chuyến xem sao. Để chỗ thằng Báu đi tôi thấy không yên tâm lắm. Thằng ấy còn mới quá.
          Báu là trung úy, trung đội trưởng trung đội trinh sát của tiểu đoàn. Đúng là anh này có thành tích học tập và huấn luyện trong nhà trường rất cao nhưng đi đánh nhau thật thì đây mới là lần đầu. Chính trị viên Vũ Văn Vượng thấy tiểu đoàn trưởng đến bèn ngồi bật dậy, bỏ điếu thuốc khỏi miệng vứt xuống đất, lấy chân di đi.
          - Tôi cũng nghĩ như anh. Anh định trực tiếp đi cùng với chúng nó  à ?
          - Ừ, để nắm chắc địa bàn rồi về mình bàn phương án tác chiến.
          - Nhưng nên để sáng mai đi sớm anh Khoai ạ. Bây giờ đêm tối thế này, mình vừa mới đến, rừng rú chưa biết đâu vào đâu, cũng nên thận trọng. Anh tranh thủ nghỉ chút, đi đường cả ngày đã mệt lắm rồi.
          - Thế cũng được. Vậy đồng chí đi kiểm tra anh em gác thế nào.
          Còn đang bàn với nhau thế đã thấy liên lạc cầm đèn pin hớt hải chạy đến. Bùi Khoai vội hỏi :
          - Có chuyện gì ?
          - Báo cáo các thủ trưởng, đội trinh sát báo về là chiều nay có 2 người dẵm phải mìn.
          - Tình hình thế nào ?
          - Một người bị mất mấy ngón tay phải, một người cụt chân. Đã cáng về trạm cứu thương tiểu đoàn.
          Bùi Khoai nói với Vượng :
          - Đồng chí thấy không, mình lo có thừa đâu. Cuộc chiến đấu còn dài mà vừa đến đã có người bị thương.
          Rồi anh quay qua lệnh cho liên lạc :
          - Đồng chí truyền đạt cho trung đội trưởng Báu rút đội trinh sát vể nghỉ, sáng mai tổ chức một tiểu đội gọn nhẹ đi cùng với tôi sớm.
          - Rõ.
          Anh liên lạc chạy biến vào đêm, đèn pin loang loáng chiếu lên cây rừng. Cùng lúc rộ lên mấy tiếng súng trường. Bùi Khoai vểnh tai lên nghe rồi nói với Vượng.
          - Lính ta không bắn kiểu này. Chắc chắn bọn Pôn Pốt đang luẩn quẩn gần đâu đây. Biết ta mới đến, chúng bắn kiểu này là để quấy ta đấy thôi.
Sáng sớm hôm sau, khi sương mù vẫn còn mờ mịt, tiểu đội trinh sát 9 người do Báu dẫn đầu đã tập hợp tề chỉnh trước lán tiểu đoàn bộ, mang theo súng AK báng gấp, lựu đạn dây mi-ni, bông băng sát thương, máy ảnh, ống nhòm...theo đúng quy chuẩn của trinh sát bộ binh đi chiến đấu. Họ toàn là những chiến sĩ trẻ, kể cả Báu. Bùi Khoai nghĩ đi một chuyến với họ vừa tìm hiểu được địa bàn, vừa kèm cặp được lũ trẻ này. Anh nói :
- Các đồng chí phải xác định rõ nhiệm vụ chuyến đi hôm nay, đó là phát hiện địch, phát hiện những tuyến di chuyển của chúng đồng thời đánh dấu những điểm có thể có nước. Tôi dẫn đầu đoàn, đồng chí Báu khóa đuôi, các đồng chí ở giữa hỗ trợ cho nhau, tuyệt đối bí mật, gặp địch thì tiêu diệt. Rõ chưa ?
Toàn đội hô “rõ” rất to. Họ hiểu đây là một chuyến công tác quan trọng nhằm giúp cho tiểu đoàn nắm vững địa bàn và tình hình địch để đứng vững chân chiến đấu lâu dài. Bùi Khoái vẫy tay ra lệnh, mọi người theo anh luồn vào rừng, chỉ một loáng cánh rừng bao la và dữ tợn như một con thú khổng lồ đã nuốt trọn những người lính lọt thỏm vào bụng mình. Gần 9 giờ sương mù mới tan hết, cũng là lúc mồ hôi đã ướt đầm áo mặc dù ánh mặt trời chói chang không lọt qua được những tán lá rừng ken đặc. Đang lấy tay vạch bụi tầm gai để lần đường, Bùi Khoai bỗng nghe có tiếng động rào rào như tiếng thú chạy trên lá khô. Anh ra hiệu cho đồng đội nấp vào các gốc cây còn anh quăng mình lăn vào một ụ mối, nhanh như cắt. Tập trung quan sát, Bùi Khoai thấy một lũ chuột kéo nhau thành đàn, những con chuột xám đen to mập gần bằng con thỏ con chạy tán loạn bên cạnh những con kỳ đà mình mẩy mốc xanh trông chẳng khác những con cá sấu, con từ dưới một cái hố bò lên, con lại từ trên miệng hố thả mình rơi xuống. Chúng chạy rào rào trên miệng hố, thỉnh thoảng dừng lại nghển đầu, mắt lơ láo nhìn canh chừng. Sau khi quan sát không thấy có địch, Bùi Khoai lặng lẽ tiến gần miệng hố, những người khác theo sát sau. Hóa ra đấy là một cái hố chôn người của bọn đồ tể Pôn Pốt, những người chúng giết bị quăng xuống đây chồng chất lên nhau, trở thành một đống mồi hấp dẫn các loại thú rừng. Thấy động, lũ chuột và lũ kỳ đà hoảng sợ chạy rối loạn, có con lao cả vào chân Bùi Khoai khiến anh phải nhảy lên tránh. Cùng lúc những con rắn to và dài như chiếc đòn gánh cũng trườn từ dưới hố lên, có những con chui ra từ dưới đống xương người, xương va vào nhau kêu thành tiếng lốc cốc rùng rợn, để lộ ra một cái đùi người đang bị gặm dở. Cũng từ dưới hố vù vù u u bay lên một đống những sinh vật bay mà Bùi Khoai chắc chắn trong đó có đám nhặng xanh và ong rừng. Bùi Khoai chợt nhớ lại những cơn gió đem theo mùi thối rữa chiều qua. Một chú lính trẻ giương súng định bắn mấy con kỳ đà khủng, Bùi Khoai kịp quát lên :
- Không được bắn, tiếp tục giữ im lặng.
Anh quay lại nói với mọi người :
- Điều này chứng tỏ địch đang ở gần đây. Có thể có cả những người dân bị chúng bắt đem theo chống lại chúng nên mới bị chúng giết, vứt xác xuống hố thế này.
Một anh trong đội trinh sát rón rén tiến ra sát miệng hố, cố nhăn mũi chống lại mùi thối dơ dáy từ dưới bốc lên, nâng máy ghi lại hình ảnh những khúc xương người trắng hếu nằm lẫn trong những mớ vải đen đang mục rữa, những con rắn như một khúc gỗ khô mốc meo rúc đầu trốn xuống đống thịt người đang phân hủy. Rõ ràng nếu đội trinh sát không chụp mấy kiểu ảnh thì những chuyện kinh khủng thế này có đem kể ra cũng chẳng mấy ai dám tin. Bùi Khoai dẫn mọi người tiếp tục di chuyển, nghĩ tới lũ kỳ đà ăn thịt người mà ai cũng sởn gai ốc. Đến giữa trưa, Bùi Khoai cho mọi người ngồi nghỉ ăn cơm ở một vạt đất trống có nắng mặt trời chiếu xuống. Đang ăn nắm cơm nắm với miếng cá khô đem theo, bỗng Báu chăm chú quan sát một khoảng đất gần đấy có cây cỏ um tùm. Anh nghi ngờ tiến đến, phát hiện ra dấu những bước chân, cỏ bị dẫm đạp vẫn còn rạp xuống. Lập tức Báu ra hiệu cho mọi người cảnh giác trong khi anh theo dấu những vết chân dẫn đến một khe đá. Một dòng nước nhỏ thong thả rỉ ra từ trong khe, ánh nắng chiếu xuống dòng nước lấp lóa như ánh bạc. Báu hét lên “nước, có nước đây này” rồi vẫy tay cho mọi người. Mấy anh lính trẻ đứng lên, chực chạy tới liền bị Bùi Khoai ngăn lại.
- Cẩn thận, chú ý đi tản ra-Bùi Khoai quát lên.
Bùi Khoai làm như thế là vì anh nghĩ dấu chân trên cỏ còn mới tức là vừa có người dẫm lên, những dấu chân dẫn đến khe nước tức là người ta cũng đi tìm nước. Giữa chốn rừng thâm u này không thể có dân, vậy chỉ có thể là lính Pôn Pốt. Chắc chắn bọn này cũng thiếu nước như các chiến sĩ của ta. Còn đang nghĩ thế thì đã nghe một tiếng súng trường nổ vang, tiếng nổ vỗ vào vách núi, viên đạn bay vèo, trúng vào chiếc bi đông Báu đang đeo bên mình phát ra một tiếng choang chói tai, mặt bi đông vỡ toác. Báu bị hất siêu người nhưng nhờ cái bi đông mà thoát chết.
- Lập tức truy kích !
Bùi Khoai thét lên, thúc mọi người lao về phía tiếng súng vừa nổ. Cái khe nước này rõ ràng sẽ có một vai trò quan trọng cho đơn vị nên Bùi Khoai nhất định phải làm sạch địch chung quanh, giữ lấy mạch nước quý hiếm. Một lúc sau, hai tiếng AK nổ liền nhau ròn tan, Bùi Khoai biết ngay đấy là lính mình nổ súng. Anh chạy đến. Cái xác mặc quần áo đen ngã úp sấp vào một gốc cây, bên cạnh có cái ống bương đựng nước, thằng lính Pôn Pốt này chắc đang đi tìm nước cho đồng bọn. Báu lật cái xác lên, lục tìm trong người tên địch xem có giấy tờ tài liệu không nhưng anh không tìm thấy gì. Tay anh vẫn còn run, mặt tái xanh vì viên đạn bắn hụt của nó vừa rồi.
Những ngày tiếp theo, bọn Pôn Pốt biết bộ đội ta mới hành quân đến, chưa ổn định, chưa thông thạo địa bàn nên chúng dùng các loại hỏa lực bắn cầm canh, lại chia thành những tốp nhỏ hai, ba tên liên tục bu bám. Có những lúc chúng huy động đến một tiểu đội, phục kích, cắt đứt tiếp tế từ trung đoàn, cốt làm đơn vị suy yếu. Tuy tiểu đoàn đã kiên cường phòng ngự, bẻ gẫy nhiều đợt tập kích của chúng, chủ động truy quét đẩy chúng chuyển sang co cụm, nhưng địch rất ngoan cố, dai dẳng bao vây, nã hỏa lực vào lính ta. Trước tình hình đó, Bùi Khoai họp ban chỉ huy, nêu phương án tác chiến mới. Trông anh lúc này mắt thâm quầng vì mất ngủ, tóc râu dài tua tủa, da dẻ xạm nắng gió, dễ già đi có đến mấy tuổi. Anh nói, được cái giọng nói vẫn sang sảng :
- Sau 3 tháng chốt ở đây, do sức ép của địch, số chiến sĩ của ta thương vong không ít. Số còn lại mất sức, ăn ngủ thiếu, ấy là tôi chưa nói đến các đồng chí bị sốt rét. Do đấy sức chiến đấu phần nào giảm sút. Trong khi đó lực lượng địch đóng sát biên giới, lúc ta co lại thì chúng nống ra, lúc ta truy quét thì chúng luồn hết sang phía Thái Lan. Bởi vậy tôi đề nghị chúng ta đánh một trận lớn. Để địch không chạy sang phía Thái Lan được, tôi sẽ dẫn một trung đội bí mật luồn rừng bọc kín đường rút của chúng, ém quân đợi trung đội chủ công truy đuổi phía dưới, khi chúng chạy vượt biên giới thì ta phối hợp tiêu diệt. Các đồng chí có nhất chí  phương án này không ?
Mọi người đồng thanh hô :
- Nhất chí, phải tiêu diệt chúng.
Ngay sau đó, Bùi Khoai dẫn một trung đội trèo đèo lội suối luồn rừng một ngày thì đến địa điểm ém quân. Bùi Khoai nhắc trung đội trưởng  :
- Đồng chí quán triệt anh em tiêu diệt và bắt sống địch là chính, không truy đuổi xa, lớ quớ lạc sang đất Thái Lan là bỏ mẹ.
Đợi một nửa ngày, trong lúc cả lính cả chỉ huy đều thấm mệt thì trinh sát báo tin bộ đội chủ công đã tập kích vào căn cứ của địch, bọn chúng đang rút chạy về phía biên giới, có lùa theo một số người dân. Bùi Khoai mỉm cười, xem đồng hồ. Lúc này mới là 12 giờ 20 phút, khoảng hai tiếng nữa chúng sẽ rơi vào cái bẫy anh đã giăng ra. Quả nhiên đến 3 giờ chiều, một đoàn gần 40 tên chạy đến, đứa nào cũng quần áo đen rách tả tơi, đứa nào cũng thất thểu và hoảng sợ, trông chúng chẳng khác những bóng ma đói liêu xiêu chạy trong rừng. Đợi chúng vừa tầm ngắm, Bùi Khoai ra hiệu cho anh em nổ súng. Những tên đi đầu ngay lập tức ngã gục, những đứa còn lại bỏ chạy thục mạng tứ tung. Gần chục đứa ngồi thụp xuống ôm đầu, chịu yên cho bộ đội ta bắt. Một thằng áo đen quần đen, tóc tai bờm xờm, mặt mày hốc hác, cắm cổ chạy về phía Bùi Khoai, bất thình lình thấy anh thì khựng lại như vấp phải một lực cản thần thánh ghê gớm, khẩu súng trường cầm trên tay rơi bịch xuống đất. Bùi Khoai thấy khẩu súng đã rơi, lại thấy nó đứng im mà mắt trợn trừng, lòng trắng lộn hết ra thì anh không bắn. Đến gần nhìn kỹ hóa ra thằng này thấy bộ đội Việt Nam thì sợ quá, đứng tim mà chết, mắt trừng lên không nhắm lại được. Bùi Khoai nhặt khẩu súng, lấy báng hẩy vào ngực tên địch, nó ngã ngửa, thân thể cứng đuỗn ra như khúc gỗ.
Những tưởng trận này quân ta thắng lớn, diệt tại chỗ 22 tên, bắt sống 11, thu  19 súng các loại, nào ngờ đang thu dọn chiến trường thì rừng núi chợt rung giật lên bởi những tiếng rít xé tai. Đạn pháo từ bên kia biên giới bắn sang tới tấp, tai anh nào cũng ù đặc bởi những tiếng nổ chát chúa. Pháo địch nện kéo dài gần 30 phút. Lại có thêm mấy tên lính Pôn Pốt bị chính đạn pháo của chúng giết chết. Ta có 5 chiến sĩ hy sinh, 6 bị thương. Lúc này khoảng 6 giờ tối nhưng trời đã  đen kịt. Vừa có chiến sĩ thương vong, vừa có tù binh, Bùi Khoai biết không thể hành quân đêm về căn cứ được nên lệnh cho bộ đội di chuyển khỏi tầm pháo rồi dừng lại nghỉ qua đêm.
Bùi Khoai không ngủ được. Không phải vì cái lạnh giá buốt của rừng đêm mà vì cái lạnh trong lòng khi anh nghĩ tới 5 tử sĩ. Anh biết 5 người này đều quê miền Bắc, sáng nay trong lúc hành quân chúng còn í ới cho nhau thuốc lá. Bất giác Bùi Khoai lùa tay vào túi quần, tay anh đụng vào bao thuốc lá hút dở. Bây giờ chắc những thân thể trẻ măng kia đã được bó chặt trong túi xác và đang cứng lại. Chiều nay, một trong 5 cái xác kia, lúc hấp hối đã nắm lấy tay anh khi máu ở cổ chảy toe toét lên lá khô, thều thào nói : “Thủ trưởng ơi, cứu em. Em không muốn chết ở đây”. Anh nghĩ tới bố mẹ và người thân của những cái xác kia, làm sao họ có thể ngờ con em họ đang chết cứng trong rừng rậm ở một xứ sở hoàn toàn khác lạ. Không thể nằm yên, Bùi Khoai bật dậy đi đến chỗ mấy anh lính canh xác.
- Này, các cậu hút thuốc đi.
Bùi Khoai tung nốt cho họ mấy điếu Tam Đảo còn lại trong bao. Đối với cánh lính, thuốc lá không chỉ để giải cơn nghiện mà còn là người bạn tri kỷ, hút thuốc làm ấm dạ, vợi đi nỗi buồn nỗi nhớ. Mấy chú lính đang buồn thiu, reo lên   chia nhau từng điếu thuốc mà như vớ được vàng. Việc canh giữ xác các tử sĩ giữa rừng đêm phải làm rất cẩn thận, chu đáo, chỉ cần sơ xuất một chút là lũ thú dữ đói mồi ngửi thấy mùi máu hôi tanh sẽ kéo đến ngay. Mùi thuốc lá thơm xua đi ít nhiều cảm giác lạnh lẽo hơi người chết, tuy thế Bùi Khoai vẫn thấy rùng mình. Anh kéo cổ áo che kín họng, bảo mấy chiến sĩ trẻ :
- Các cậu nhặt cành khô chất ra chỗ trống kia mà đốt, vừa ấm vừa có lửa đuổi lũ thú dữ.  
Quả nhiên càng về đêm càng lạnh. Gió thổi lá rừng rào rào như mưa, thỉnh thoảng nghe tru lên tiếng tru ghê sợ của lũ thú đói mồi. Tinh thần mấy anh chiến sĩ như được xốc lên khi ngồi bên đống lửa. Lửa bập bùng soi vào mặt họ hồng lên, soi vào mắt họ lóe sáng. Một anh tụt chiếc áo chua lòm ra, bảo người bên cạnh :
- Mày tắm khô cho tao cái đi, lâu không có nước tắm, ngứa quá.
Người lính bên cạnh lấy hai bàn tay kỳ lên lưng đồng đội, tạo thành những vệt dài đỏ ửng như đánh gió. Kỳ đến đâu ghét khô rơi ra rông rổng đến đó. Nhìn các anh lính kỳ khô cho nhau lòng Bùi Khoai quặn đau. Anh thầm nghĩ mùa khô ở Căm-pu-chia tuy nóng rát nhưng còn cái may là độ ẩm thấp, chiến sĩ ta đỡ bị những bệnh ghẻ lở, hắc lào do thiếu nước tắm. Mùa mưa thì...
Bước sang tháng thứ 4 ở giữa rừng, vào lúc trung đoàn đang chuyển hàng tết lên cho đơn vị thì Bùi Khoai nhận được lệnh triệu tập về Thủ Đức dự lớp tập huấn của trường lục quân. Việc bàn giao cho tiểu đoàn phó, chính trị viên tiểu đoàn Vũ Văn Vượng diễn ra nhanh chóng. Bùi Khoai băn khoăn :
- Thế là tôi không kịp ở lại ăn tết chiến đấu cùng mọi người. Tết xa nhà đã nhiều, tết xa đơn vị lại đang lúc chiến đấu thì đây là lần đầu. Chắc chắn sẽ nhớ các đồng chí lắm.
Vũ văn Vượng bảo :
- Anh cứ  yên tâm về học tập, ở đây tôi sẽ giữ vững truyền thống anh dũng quyết thắng của đơn vị. Anh nên đến trung đoàn bộ mà đi nhờ trực thăng chở thương binh về Nông Pênh. Ở sân bay Pô-chen-tông ngày nào cũng có máy bay của ta về Sài Gòn, như thế vừa nhanh, vừa đỡ nguy hiểm hơn là đường bộ.
Bùi Khoai được anh em đưa về trung đoàn bộ lúc 2 giờ chiều, vừa may 3 giờ có máy bay về Nông Pênh. Anh ngồi ghé bên cạnh các thương binh trong chiếc thực thăng rung bần bật, động cơ nổ như búa máy, quạt gió quay như bão. Khoảng 4 giờ đã về đến sân bay Pô-chen-tông, ở đây thương bệnh binh nằm ngồi la liệt, đầu mình chân tay quấn băng trắng xóa một góc đường băng. Bùi Khoai tìm đến đồng chí phụ trách sân bay. Anh này mặc áo may-ô, ngồi trong phòng rộng của đài chỉ huy, chiếc quạt trần quay vù vù dựng đứng mớ tóc bạc lởm chởm, một khẩu súng AK để ngang trên mặt bàn. Nghe Bùi Khoai trình bày xong, anh này vội nói :
- Đang xếp cho chuyến bay cuối vào lúc 5 giờ chiều đấy, đồng chí nhanh chóng ra đề nghị với thủ trưởng Thái Tần cho đi nhờ, may ra được.
Bùi Khoai chỉ kịp nói câu cảm ơn gọn lỏn rồi xách ba lô chạy vút ra. Thương binh đang được dìu lên máy bay, ai nhẹ thì đỡ vào người khác tự đi, ai nặng thì phải cáng. Bùi Khoai hỏi thăm, không người nào biết thủ trưởng Thái Tần là ai. Loanh quanh một hồi, sợ muộn giờ nên anh đeo ba lô lên vai, cứ theo bước người khác lên cầu thang máy bay. Một người thấp lùn, mập mạp, tóc hoa râm, da mặt đỏ au, áo sắn tay khỏe khoắn đứng chặn ngang cửa. Người này chỉ tay vào mặt Bùi Khoai quát :
- Thằng này, mày ở đơn vị nào ? Có phải thương binh không mà chen vào đây ?
Bùi Khoai ớ ra ngạc nhiên về cách xưng hô nhưng vẫn phải từ tốn vì đang nhờ vả :
- Không phải thương binh.
- Thế thì xuống mau. Xuống !
Bùi Khoai khó chịu đứng né sang một bên. Kể như bình thường thì anh không chịu để người ta quát tháo nhưng anh nén lại được, vội nói tiếp :
- Báo cáo, tôi vừa ở xa về, có lệnh về Sài Gòn gấp.
- Xa là ở đâu ?
- Mặt trận phía Tây.
Lúc này người đầu bạc mới để ý nhìn Bùi Khoai, đổi giọng :
- Pai-lin hả, thế thì vào đi !
Bùi Khoai nhanh chóng lọt vào bên trong máy bay. Khi đã ngồi yên trên bầu trời, khi chiếc trực thăng Mi 8 ào ào quạt gió chở anh đi xa dần khỏi mảnh đất máu lửa thì  ý nghĩ đầu tiên của anh hướng ngay về đơn vị, nhớ mấy chú lính trẻ thường gọi anh là thủ trưởng “Khoai bở” vì có gì anh cũng dành cho chúng nó, từ miếng lương khô đến điếu thuốc lá. Họ đúng là một lũ lính trẻ, đã là chiến sĩ rồi mà còn nghịch như quỷ, những lúc không có mặt chính trị viên Vũ Văn Vượng chúng thường réo to mấy câu vè toàn vần V : “Vũ Văn Vượng vác vợ vào vườn vừng, vừa vê vú vừa vén váy vợ”. Bùi Khoai thở dài nghĩ đến trọng trách chỉ huy tiểu đoàn đè nặng lên vai người chính trị viên đã 5 năm chưa về thăm vợ. Khi máy bay đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất, Bùi Khoai hỏi mới biết người đã mày tao với anh ở sân bay Pô-chen-tông chính là vị tướng nổi tiếng Thái Tần.
Bùi Khoai được nghỉ 7 ngày trước khi vào khóa huấn luyện. Ở chiến trường K về nên đến đâu cũng được ưu tiên, vì thế Bùi Khoai đã làm một cuộc hành quân thần tốc về quê thăm nhà. Anh đi máy bay từ Sài Gòn ra Hà Nội, đi nhờ ô tô của Bộ Tư lệnh Hải Quân về Hải Phòng. Đến Hải Phòng đã muộn, Bùi Khoai rẽ vào Tỉnh đội hỏi mượn xe của một người quen nhưng thật không may anh này đi vắng. Bùi Khoai quyết định đi bộ. Quãng đường về nhà chỉ còn hơn chục cây số, với tốc độ hành quân chuyên nghiệp của anh thì chỉ khoảng 2 tiếng là đến nơi. Anh xốc lại ba lô, được cái ba lô cũng nhẹ. Chẳng có gì. Anh bước đi như chạy. Trời cuối năm lạnh, đứng trên phà Bính gió thổi lộng mà mồ hôi vẫn toát ra. Lúc lên  khỏi phà, đang cắm cúi bước những bước vui thì bỗng có người đi xe máy dừng lại hỏi :
- Anh bộ đội về đâu đấy ?
Bùi Khoai ngước lên, thấy một thanh niên mặc áo na-tô, chân dận bát-kết trắng đế dày cộp, dắt chiếc xe máy ba-bét-ta mà cánh lính thường gọi là xe ba-bét-nhè. Bùi Khoai nghi ngại trả lời :
          - Tôi về Minh Tân. Có việc gì ?
- Em về Núi Đèo. Anh lên em chở, đỡ phải đi bộ 6 cây số.
- Thế thì tốt quá, cho tôi đi nhờ nhé.
Không chút khách khí, Bùi Khoai ngồi lên xe, chiếc xe phành phạch lấy đà rồi lướt đi. Quen với tác phong người lính, Bùi Khoai hỏi thẳng ngay :
- Cậu là công nhân à ? Công nhân mà mua được ba-bét-ta thì giỏi đấy.
- Đâu, em mới đi lao động ở Tiệp về nên có xe đấy chứ. Thế còn anh ?
- Tôi vừa ở K ra, được nghỉ mấy ngày về thăm nhà. Tôi cũng có chú em chừng tuổi như cậu, nghe đâu như là đang lao động ở Tiệp Khắc.
- Thế à, anh ấy đi lâu chưa, ở tỉnh nào ?
- Cũng khoảng gần năm rồi. Ở tỉnh nào thì tôi không biết.
Mặc dù gió thổi khá mạnh mà Bùi Khoai vẫn ngửi thấy từ người từ tóc anh bạn tốt bụng tỏa ra mùi nước hoa hoặc xà phòng thơm gì đó rất dễ chịu. Mùi thơm  sang trọng này chắc chỉ có ở những người đi nước ngoài về. Chính mùi thơm nhẹ nhàng ấy bất chợt làm Bùi Khoai nhận ra là anh cũng vừa từ nước ngoài về. Anh ta thấy có điều gì sai sai trong so sánh ấy nên lắc lắc đầu cố xua đi ý nghĩ về cái mùi thịt người thối rữa giữa rừng Bát-tam-bang.
- Ở K thì các anh vất vả lắm nhỉ-Anh bạn đường tay vẫn cầm lái nhưng rướn người lên hỏi cho rõ ràng.
- Nhiệm vụ quốc tế mà.
- Thế cũng là xuất ngoại, cũng là đi nước ngoài anh nhỉ.
Bùi Khoai nhắc lại, lần này tiếng to hơn :
- Đã bảo nhiệm vụ quốc tế mà. Đâu có được như các cậu.
Nhận thấy anh bộ đội ngồi sau tỏ ra hơi khó chịu qua giọng nói có chút gắt gỏng vô cớ, anh bạn đường chuyển ngay sang chủ đề khác. Chiếc xe chạy bon bon, đèn pha chiếu thẳng vào đêm tối một vệt sáng thẳng. Mải nói chuyện nên  chẳng mấy đã đến Núi Đèo, ngọn núi đất đỏ thấp và là địa danh quen thuộc của Thủy Nguyên. Bùi Khoai xiết chặt tay người thanh niên tốt bụng, rối rít cám ơn rồi lại cắm cúi bước đi. Đường vắng ngắt, thỉnh thoảng mới có một hàng nước, người bán nước ngồi co ro buồn tênh bên ngọn đèn dầu le lói. Gió lạnh thổi từng cơn mà Bùi Khoai không biết rét. Khi  nghe chiếc loa công cộng tít tít báo hiệu 9 giờ tối thì cũng là lúc anh đứng trước cổng nhà. Tim anh như bị bóp nghẹt lại. Phải gần 3 năm anh mới lại đứng trước cánh cửa liếp quen thuộc. Trong nhà tối om, chắc mọi người đã ngủ. Bốn chung quanh cũng im lặng, thỉnh thoảng vẳng lên tiếng chó sủa vu vơ trong gió sông Giá thổi lộng. Bùi Khoai lặng lẽ đến sát cửa, cất tiếng gọi :
- Hoàng Thu, Hoàng Thu ơi, bố Khoai về đây.
          Phải gọi đến lần thứ hai và lấy tay đập vào cửa liếp Bùi Khoai mới nghe  tiếng bố anh :
- Mẹ cái Thu mau dậy đi, nghe như thằng bố nó về kìa.
Vợ Bùi Khoai cuống quít thức dậy, vặn to ngọn đèn, chạy ra mở cửa. Cô dụi mắt, tưởng mình đang mơ. Ngay trước mặt cô là người chồng, vai vẫn đeo ba lô,  đứng lừng lững giữa cửa. Hai người cứ ngỡ ngàng nhìn nhau cho đến khi ông bố già cầm ngọn đèn ra tận nơi, giơ lên cao và hỏi :
- Sao bố nó lại về vào giờ này !
          Bùi Khoai kể lại vắn tắt hành trình của mình từ rừng núi Bát-tam-bang. Ba bố con ngồi quanh ngọn đèn dầu rỉ rả nói chuyện trong khi con bé Hoàng Thu, con gái Bùi Khoai, vẫn nằm quấn tròn trong chăn ngủ ngon lành, không hề biết gì. Mãi đến khi đi nằm, Bùi Khoai ôm vợ để hơi ấm người đàn bà tỏa sang mình, anh mới biết bên ngoài gió cuối đông đang giá lạnh. Bùi Khoai ghé sát vào tai vợ, nói nhỏ : “con trai nhé”. Vợ anh lặng im, tay khẽ dúi vào má anh.
          Sáng hôm sau, khi Bùi Khoai thức dậy còn sớm mà đã không thấy vợ nằm cạnh. Anh hỏi bố :
- Mẹ Hoàng Thu đi đâu sớm thế ông ?
- Nó đi làm cỏ.
- Sao sớm thế ?
- Ruộng 5 phần trăm. Tranh thủ như thế để tí còn phải đi làm theo kẻng hợp tác xã nữa.
 Bùi Khoai đánh thức con gái Hoàng Thu để nó đi học. Hoàng Thu mới vào lớp 3 trường làng được một học kỳ. Nó im lặng, bẽn lẽn nhìn anh, ngỡ ngàng. 
- Bố mày đấy chứ ai. Chào bố đi cháu.
Ông lão bê từ bếp ra một cái chậu thau đồng đựng nước nóng, đặt bên cạnh vại nước dưới gốc cau rồi nói :
- Bố con rửa mặt đi còn ăn sáng, cái Thu còn phải đi học. Hôm nào cũng đi muộn.
Rửa mặt nước nóng xong Bùi Khoai dắt con vào bếp, đã thấy ông bố để một rổ khoai luộc đang bốc hơi. Hoàng Thu vớ một củ to. Trông cái cách nó ngắc ngứ ăn củ khoai, Bùi Khoai biết ngày nào nó cũng phải ăn khoai độn. Anh hỏi bố :
- Nhà mình có bị thiếu ăn không ông ?
- Nhà nào chẳng thiếu-ông bố anh trả lời. Mỗi ngày đi làm công cho hợp tác xã mẹ nó được 10 điểm, một vụ lúa nhận về một tạ thóc, ai mà chẳng thiếu. Thôn mình nhà nào cũng ngày 2 bữa, nhưng bữa nào nồi cơm cũng chỉ vài hạt gạo còn toàn khoai là khoai.
Bùi Khoai quặn lòng khi nghe câu chuyện của bố. Từ chiến trường vào sống ra chết trở về, anh thật đau lòng thấy quê hương thiếu đói. Nhưng đó là tình cảnh chung, chẳng riêng nhà ai. Thấy Bùi Khoai ở nhà đến ngày thứ 3 mà bữa ăn không có gì gọi là chất tươi, bố anh áy náy bàn với con dâu :
          - Con lợn nhà mình tầm này được bao nhiêu ký ?
- Khoảng trên dưới 25 ký ông ạ. Ông định...?
- Giết thịt cho bố nó ăn. Con Thu cũng dựa vào đấy có tí bồi dưỡng, người lớn thì có âu mỡ ăn dần. Thế có được không, ý con ra sao ?
- Lợn bé thế lấy đâu ra mỡ ?
- Vậy mẹ con Thu tìm đâu ra lợn to ? -Ông cụ nói, giọng không vừa ý. Vợ Bùi Khoai bảo :
- Con cũng muốn thế, nhưng mổ lợn thì biết xin phép hợp tác xã thế nào.
- Cứ bảo nó ốm, không nuôi được thì phải thịt. Chuyện này để ông !
Nhằm lúc Bùi Khoai đi thăm bà con trong xóm, vợ anh vào bếp đun nồi nước sôi rồi cùng ông bố quật luôn con lợn ra làm thịt. Con lợn cân hơi được 23 ký rưỡi, cạo lông mổ bụng xong cân móc hàm được 17 ký. Làm kín thế mà không hiểu sao khi Bùi Khoai về đã thấy đội trưởng sản xuất cùng mấy người đang cự nự bố anh. Thấy Bùi Khoai đi vào, họ đứng lên lễ phép chào hỏi, tuy nhiên vẫn rất cứng.
- Biết thủ trưởng vừa từ chiến trường K về thăm quê hương nhưng việc ông cụ mổ lợn thế này là vi phạm nội quy của hợp tác xã, chúng em bắt buộc phải làm biên bản để báo cáo với ban chủ nhiệm.
          Bùi Khoai nóng mặt :
- Lợn nhà tôi, muốn nuôi muốn thịt là do tôi chứ sao lại vi phạm nội quy hợp tác xã ?
- Thủ trưởng đi chiến đấu lâu ngày chắc không nắm biết được chính sách ở hậu phương nên nói thế. Đã đành lợn giống xã viên phải tự mua, tự nuôi nhưng khi bán thì không được mang ra chợ mà phải cân nghĩa vụ cho hợp tác xã. Lợn chẳng may có ốm, xã viên muốn giết mổ phải được đội quản lý cho phép.
Ông bố Bùi Khoai nhảy vào chen ngang câu chuyện, tay huơ con dao mổ lợn khiến mấy người đứng gần phải né sang một bên.
- Thằng đội trưởng này nó là con cả của ông Hữu, ông Hữu là lính du kích thôn của tao ngày xưa. Đứng trong họ thì bố nó còn phải gọi tao bằng chú, nó phải gọi mày bằng chú chứ thủ trưởng, thủ phó cái mẹ gì. Bây giờ con lợn ốm thì tao mổ, tao bồi dưỡng cho chúng mày một đùi là được, làm sao phải phép tắc cơ chứ.
Người đội trưởng quay sang gọi Bùi Khoai bằng chú.
- Tại chú đi lâu nên cháu ít có dịp gặp. Ông đã nói thế thì chúng cháu cũng nể gia đình ta là gia đình chính sách, chỉ nhắc nhở rồi cho qua thôi chú ạ. Nhưng cũng báo cáo chú biết gia đình ta không phải diện khó khăn đâu nhé. Vì sao à, vì nhà chú vẫn có người đi nước ngoài.
          Bùi Khoai vô tình buột ra câu hỏi :
- Là ai cơ ?
- Ông chẳng có con giai gửi xe đạp về cho là gì.
Ông bố Bùi Khoai dúi vào tay anh cháu đội trưởng cái đùi lợn gói trong lá chuối. Anh này vui vẻ cầm như không, chào Bùi Khoai rồi kéo mấy người kia bỏ đi. Bùi Khoai mới hỏi bố :
- Chú Khoái gửi xe về cho bố à ?
- Chết chết, nó gửi cái xe đạp mà ầm cả xã, ai người ta cũng biết. 
Lúc này đi vào, Bùi Khoai mới để ý thấy có chiếc xe đạp nữ treo trên xà nhà, khung xe quấn vải cẩn thận. Anh hỏi :
- Ông không đi xe hay sao mà lại đem treo lên thế này ?
Ông lão không trả lời vì đang mải lúi húi xẻ thịt. Khi Hoàng Thu đi học về, nhìn thân hình còm nhom và hai cái đuôi tóc ngắn cũn của nó, ông chép miệng :
- Bố tiên nhân khỉ ! Xin bố mày mấy hào chạy đi mua cho ông mấy hào rượu.
          Con bé vừa cầm tiền của bố, vừa toét miệng hỏi ông nội :
- Ông ơi, làm sao bố cháu lại tên là Khoai ? Đã họ Bùi lại tên là Khoai nghe chán chết, cứ như là củ khoai bở ăn trong bếp ấy.
- Thì lúc đẻ bố mày, cả ông cả bà chẳng phải ăn toàn khoai là gì. Lúc bấy giờ lấy đâu ra gạo mà ăn.
Hoàng Thu ngước mắt nhìn ông nội, đôi mắt trong veo ngây thơ :
- Thế lúc đẻ chú Khoái ông bà có được ăn gạo không mà lại đặt tên chú ấy  là Khoái ?
          Ông bố Bùi Khoai có vẻ bí, chỉ cười trừ và buông ra một câu chửi yêu đứa cháu gái của mình :
          - Bố tiên nhân khỉ, chỉ được cái tò mò !

         Chương 4
                                        
            Bùi Khoái đã trở thành một chủ hàng có tiếng sau thời gian 3 năm ở Tiệp. Sinh viên, thực tập sinh, công nhân lao động cho tới nghiên cứu sinh, thậm chí cả cán bộ đang công tác nhiệm kỳ, khi nhắc tới Bùi Khoái mũ nồi đỏ thì nhiều người thừa nhận đã lấy hàng của anh ta, số đông nói có biết Bùi Khoái, ít nhất cũng có nghe tên. Căn hộ trong khu tập thể đã trở nên quá chật hẹp, phần vì chung đụng cùng phòng với anh em khác rất phiền toái, phần vì không đủ chỗ để cất giấu hàng cũng như đón khách các nơi về. Tại sao lại không thuê ra ngoài để ở ? Ra ngoài thuê nhà ở riêng như mấy vị nghiên cứu sinh tuy có tốn kém nhưng đi về tự do, hàng hóa cất giấu thoải mái, việc buôn bán thuận tiện hơn nhiều. Câu hỏi này cách đây mấy năm Bùi Khoái không dám đặt ra, lúc ấy đói bụng gọi một đĩa chân giò hầm với cốc bia tươi anh cũng còn phải băn khoăn tính toán chán.
          Bùi Khoái gọi điện hẹn Stê-phan đến quán bar I-nô-va, gần cầu đá Sác-lơ trên dòng sông Vlta-va. Đây là một quán bar nhỏ nhưng thật xinh, người uống có thể nhìn ra khu phố cổ lúc nào cũng đông đúc khách du lịch. Kể từ lúc khấm khá lên, mỗi khi có hẹn làm ăn, Bùi Khoái đều ra đây là bởi, theo anh, chỗ này có vẻ thượng lưu hơn khu phố Mút-xtếc, nhưng lý do chính, Bùi Khoái nghĩ, là do những bức tượng Thánh cổ kính trên cầu có thể đã đem đến cho anh nhiều may mắn. Bùi Khoái chưa hỏi kỹ tại sao anh chị em người Việt lại gọi đây là cầu Tình, gọi sông Vlta-va là sông Tình, một cái tên thuần Việt đầy trìu mến. Cũng như Quảng trường Xta-rô-mét Nam-nhét-xti đã được mọi người đặt tên là Quảng trường Con gà, có lẽ vì trên nóc chiếc đồng hồ có chú gà trống cứ một giờ lại cất tiếng gáy vang. Người đầu tiên dẫn Bùi Khoái đến cầu Tình vào một tối thứ bảy là Mai, cô thợ tiện người Hải Phòng đã dạy anh cách làm ăn những ngày đầu. Buổi tối hôm ấy Mai nhất định bắt anh phải sờ tay vào bức tượng Nép-tô-múc để cầu may. Bức tượng Thánh gồ ghề này dãi nắng dầm mưa, soi bóng mình trên dòng nước trong xanh sông Vlta-va từ bao nhiêu thế kỷ, không biết đã ban tặng hạnh phúc cho bao nhiêu người. Hôm ấy nghe lời Mai, Bùi Khoái cũng đặt tay vào cái chỗ sáng bóng trên thân tượng là chỗ đã có bao người trước anh chạm vào. Mai hết hạn hợp đồng lao động, đã về nước hơn một năm nhưng mỗi khi có việc qua cầu Tình là Bùi Khoái lại bâng khuâng nhớ cô, nhớ lối nói nhắt gừng hơi chua ngoa nhưng chân thật của người con gái Hải Phòng.
          Cô phục vụ ở quán bia gọn gàng trong chiếc áo tạp dề đỏ mời Bùi Khoái vào chỗ ngồi quen thuộc. Bùi Khoái đã học được cách để tiền boa, anh thường để rất hậu nên các cô phục vụ đều vui vẻ khi anh đến. Stê-phan là người bạn rất đúng giờ, Bùi Khoái còn chưa kịp bỏ chiếc mũ nồi đỏ ra khỏi đầu thì đã thấy anh ta đứng trước mặt, to cao như một vị hộ pháp.
          - Hay quá Stê-phan, anh thật đúng hẹn. Bia nhé ?
          - Đồng ý. Tôi mang tiền trả anh đây, nhưng mới có một nửa số tiền tôi phải trả anh.
          - Chết thật, tôi có bảo anh phải trả tiền cho tôi đâu !
          - Ô hô, vậy hẹn tôi tới đây để làm gì ?
          - Có việc phải nhờ anh. Tôi muốn thuê một nơi ở mới, vừa với túi tiền mình nhưng phải có khu phụ tắm giặt nấu nướng, và đặc biệt, một yêu cầu đặc biệt, người thông minh như anh có đoán được là gì không ?
          Stê-phan ranh mãnh trả lời :
          - Tôi đoán được rồi. Phải có chỗ để anh cất hàng !
          - Anh thật tuyệt quá.
          - Lại còn phải khen tôi nữa !
          Bùi Khoái nôn nóng hỏi :
          - Tôi cần nhanh, anh có giúp được không ?
          Stê-phan nhún vai :
          - Nói theo cách của anh, chuyện đơn giản thôi mà !
          Stê-phan vừa cười vừa uống bia, bọt bia trắng như những hạt xốp nhỏ bám cả vào bộ ria mép vàng luôn được cắt tỉa cẩn thận. Việc tìm nhà để thuê hoàn toàn không khó đối với một thanh niên người Pra-ha. Chỉ chưa đến một tuần sau, Stê-phan đã gọi cho Bùi Khoái. Anh ta dẫn Bùi Khoái đến một ngôi nhà 4 tầng gần sân vận động Spác-ta, cổng mở ra con đường rộng rãi, thoáng mát dưới tán những cây sồi lâu năm. Chủ ngôi nhà là một ông già người Tiệp nghiện rượu nhưng rộng bụng, không biết lòng tốt là tự nhiên hay là do lúc nào ông cũng trong trạng thái lâng lâng say xỉn. Đã có khách thuê các tầng 3 và 4, phần lớn là người nước ngoài và mấy người Tiệp mới ở vùng quê lên. Ở tầng 2 có một khách vừa trả căn phòng 30 mét vuông, có phần phụ riêng biệt, tiền thuê là 1200 cu-run một tháng.
          Đến tận nơi xem, Bùi Khoái đòi thuê ngay. Anh ta sợ buông ra sẽ có người khác lấy mất. Có hai điều làm anh rất hài lòng, một là ngôi nhà có tầng hầm, tuy khách thuê đã để trăm thứ bà dằn nhưng vẫn còn thừa chỗ cho anh ta cất hàng. Điều thứ hai, điều căn bản nhất là không ngờ ngôi nhà lại ở gần một văn phòng đại diện của Việt Nam chuyên về buôn bán, là nơi mà các chủ hàng luôn luôn mong ước được ra vào kết hợp làm ăn. Cán bộ nhân viên ở văn phòng này thường có những mối liên hệ xuyên biên giới, là đối tác không chỉ của người Việt mà còn của nhiều người nước ngoài,  đi lại và mang theo hàng hóa tự do vì họ có hộ chiếu đỏ. Cũng vì thế mà đây là nơi gửi hàng lậu an toàn nhất, không sợ bị công an kinh tế của Tiệp kiểm tra. Chỗ ở mới lại cũng không xa nhà máy là bao, chỉ phải đổi có một tuyến xe buýt. Bùi Khoái sung sướng dọn đến ở ngay. Ông già chủ nhà mang ra một két bia nói là để liên hoan mừng Bùi Khoái, mấy lần lè nhè hỏi Stê-phan thằng châu Á ranh mãnh này là người nước nào. Stê-phan cũng phải mấy lần ghé tận vào tai ông nói như hét lên nó là người Việt Nam, đến khi hiểu ra thì ông ta tuyên bố sẽ miễn hẳn tiền thuê nhà tháng đầu tiên cho Bùi Khoái vì tụi Việt Nam chúng nó còn nghèo khổ  vì chiến tranh. Bùi Khoái chợt nhớ đến bà lão bán chiếc máy dệt len cũ cho anh, thầm đoán ông già chủ nhà có lẽ cũng đã đi biểu tình chống Mỹ ném bom miền Bắc. Hôm ấy Bùi Khoái xem lịch thấy đã gần đến ngày rằm tháng Bảy ở Việt Nam. Anh ta liền lấy một cái lọ thủy tinh là lọ đựng mứt cũ đem kỳ cọ rửa sạch rồi cho đầy bột mỳ vào làm bát hương đặt lên nóc chiếc tủ sách cũ kỹ, mấy quả táo đặt lên đĩa rồi thắp 3 nén hương, khói hương lững thững bay lên, tỏa mùi thơm ra khắp phòng. Lạ lùng, và nhất là hoảng sợ khi thấy tàn hương trắng rơi xuống mặt tủ, Stê-phan luống cuống hỏi :
          - Anh làm cái gì đấy, định đốt nhà của ông lão à ?
          - Không, tôi thắp hương. Người Việt chúng tôi có phong tục là mỗi khi đến nhà mới đều thắp hương để bái tạ ông Thổ công Thổ địa.
          - Hương đốt thế có gây hỏa hoạn không, ông Thổ Công Thổ Địa là ông nào, là ông Thánh Giê-xu của chúng tôi hay ông Lê-nin của Liên Xô ?
          Stê-phan hỏi thật chứ không có ý gì nhưng cái  nhăn mặt khó chịu của Bùi Khoái làm anh ta chưng hửng, vẩy tay một cái rồi ra đứng ở cửa. Bùi Khoái vẫn đứng chắp tay trước 3 nén hương và đĩa táo đỏ, mắt lim dim khép, lặng lẽ cầu xin trong đầu ba điều, một là chuyển sang nhà mới luôn được mạnh khỏe, hai là công việc làm ăn thật thuận buồm xuôi gió, ba là vợ con ở Việt Nam cũng luôn được may mắn. Nhìn vẻ mặt nghiêm trang thành kính của Bùi Khoái, Stê-phan nghĩ ông Thổ Công Thổ Địa chắc phải là một ông Thánh rất linh thiêng.
          Khách đầu tiên đến xông nhà mới là Lê Văn Thành, người bạn đồng nghiệp cùng tập thể khi chưa ai có gia đình. Ở Bách khoa ít năm Thành được chuyển về quê, dạy trường Cơ điện Bắc Thái cho gần nhà, nay sang Tiệp làm nghiên cứu sinh ở Li-bê-rét. Mới bước vào nhà, anh ta đã luôn mồm xuýt xoa :
          - Mày ở chỗ này thích thế, đông vui quá, chẳng bù cho tao ở dưới tỉnh, buồn chết, cả ngày vắng như chùa Bà Đanh.
          Đưa cho Bùi Khoái bức ảnh đứa con gái hơn 3 tuổi mà vợ Bùi Khoái nhờ mang sang, Thành nói :
          - Trông con bé đẹp như thiên thần. Để tao đóng cái đinh lên chỗ đầu giường kia, treo ảnh con bé lên đó, tha hồ ngắm.
          Bức ảnh đen trắng nổi rõ những búp tóc quăn trên khuôn mặt bầu bĩnh của con bé, miệng cười ngập ngừng nhưng trông đáng yêu đến mê hồn, có lẽ lúc chụp ảnh con bé còn đang ngượng nghịu. Bùi Khoái ngẩn người ngắm ảnh con, mắt đỏ ngầu, nặng nề với ý nghĩ anh ta là một người cha tồi. Ba năm mới biết mặt con qua ảnh, ba năm chưa một lần được ôm con vào lòng, anh ta cố ghìm để không bật lên tiếng nấc nhưng nước mắt vẫn lăn trên má. Đúng theo lời dặn của Bùi Khoái khi ra đi, vợ anh đã đặt tên con là Thanh Thủy. Anh  gọi tên con đầy trìu mến khi ngước lên hỏi Lê Thành :
          - Mày thấy Thanh Thủy nó giống ai nhiều hơn ?    
          - Cái miệng cười  chắc chắn giống mẹ. Mớ tóc xoăn thì chẳng giống ai. Ha ha, giống anh hàng xóm !
          Thành chính là người đã chế ra bài thơ nhạo ngày trước rồi phát tán đi khắp khoa khiến cho Bùi Khoái và Thanh đến với nhau, vì thế anh ta cứ nhận mình đã có công mai mối. Bùi Khoái tức lắm nhưng chưa có dịp nào xỏ lại Lê Văn Thành. Bây giờ họ gặp nhau ở Tiệp, kể lại chuyện này thú vị như một chuyện vui, cười đùa thoải mái.
          Lê Văn Thành mới đến Tiệp được gần 3 tháng, còn đang học tiếng. Những ngày mới tới Li-bê-rét, anh ta sợ nhất khoảng thời gian từ lúc tan lớp ra về cho đến lúc đi ngủ. Đấy là một khoảng thời gian lê thê kinh khủng. Bạn bè chưa có, tiếng chưa thông thạo, anh ta khỏa lấp khoảng trống bằng cách ngồi lỳ ở quán bar bên cạnh một cái nhà thờ nhỏ, lúc đói bụng thì làm đĩa xúc xích với dưa bắp cải nấu nhừ. Những tia nắng cuối ngày tắt dần trên tháp chuông, tiếng chuông nhà thờ binh boong trong chạng vạng chiều giục người ta mau bước về nhà. Lê Văn Thành ngồi một mình lặng im đếm từng tiếng chuông ngân, trước mắt như hiện ra con đường làng lát gạch chạy ngoằn ngoèo  qua những vườn chuối và những hàng cau để cuối cùng dẫn đến ngôi chùa có cái tháp chuông trước cổng.  Ở đấy mỗi khi tiếng chuông chiều ngân lên là lũ trẻ lại hối hả dắt trâu về nhà, khói cơm thơm mùi gạo mới lại vương trên những mái bếp. Những hình ảnh ấy chỉ thoáng hiện nhưng đủ làm cho Thành xao xuyến nhớ nhà và  thấm thía nỗi cô đơn. Những lúc ngồi một mình như thế Lê Văn Thành không tài nào có thể nghĩ về đề tài nghiên cứu của mình. Trong đầu anh chỉ có hình ảnh người vợ gày ốm với hai đứa con trai nghịch ngợm như hai con quỷ nhỏ, quanh đi quẩn lại cũng chỉ mấy câu hỏi giờ này họ đang làm gì, xoay xở ra sao với cuộc sống vốn đã rất khó khi anh còn ở nhà. Lúc còn ở trong nước thì mong được đi, đi được rồi lại ngong ngóng tin nhà. Ở nhà nghĩ rằng cứ ra ngoài là vớ là kiếm được, khi ra ngoài rồi thì anh ta ngồi trơ một mình, không biết xoay sở ra sao. Bao nhiêu những lời hứa hẹn sẽ dành hết tâm trí sức lực cho công việc nghiên cứu bay đi hết, nhìn mọi người rầm rập làm ăn lại thấy la-bô với tìm tòi chưa hẳn đã là công việc cần ưu tiên. Những mâu thuẫn ấy sao gọi là nhỏ được khi nó cứ đêm đêm dày vò Lê Văn Thành.
          - Tao lên đây là để nhờ mày bày cho mấy chiêu, bây giờ mày nổi tiếng rồi.
          Bùi Khoái cười hơ hớ. Lê Văn Thành nhận ra giọng cười ấy chẳng khác gì hồi ở cùng nhà tập thể.
          - Đơn giản mà. Cứ yên tâm đi, miễn là mày đã sẵn sàng.
          - Sẵn sàng rồi, chỉ có vốn thì ít lắm.
          - Được. Bây giờ tao bày cách cho mày.
          Lê Văn Thành vội vã hỏi :
          - Cách gì ?
          - Khi về Li-bê-rét mày đem theo mấy bao hàng, ở đấy rất nhiều đứa cần. Tao để vốn cho mày, mày cũng đừng lấy lãi chúng nó quá, coi như chỉ lấy tiền chở hàng thuê thôi. Tao cũng chưa lấy tiền của mày, khi nào mày bán hết thì trả vốn tao rồi lại lấy đợt khác.
          - Cái đó tao làm được. Hiện ở đây mày có những thứ gì ?
          Bùi Khoái là chủ hàng cấp 1, chuyên bán buôn nên không phải lúc nào cũng có hàng, tuy nhiên anh nói :
          - Yên tâm, hàng lấy của ta-bắc cái gì cũng có, từ son phấn, dây chuyền vàng tây, khuyên tai, nhẫn, đồng hồ các loại, áo, mũ…, đều là các thứ tụi ở tỉnh đang thích.
          - Lấy của ta-bắc là lấy của ai ?
          - Mỗi lần có hàng về nhiều tao đều để cho bọn cùng nhà tập thể mỗi đứa một ít, chúng lại đem bán lẻ cho các ta-bắc ấy mà.
          - Tốt quá. Thế còn việc nhờ mày gửi hàng về ?
          -  Cần gửi cái gì về cho vợ con thì ở đây tao gửi cho, nhưng việc này thì mày phải thanh toán sòng phẳng ngay. Ai đăng ký với chủ hàng đều có thể gửi khoảng 30 kí theo đường máy bay chậm, nói là chậm nhưng vẫn là cách nhanh nhất.
          - Ai là chủ hàng-Thành hỏi. Bùi Khoái nháy mắt :
          - Tao chứ còn ai.
          - Thế thì tốt quá. Mất nhiều tiền không ?
          - Khoảng 10 cu-run một kí, 30 kí hết 300 cu-run, đáng bao nhiêu so với lương nghiên cứu sinh của chúng mày. Thực ra tiền gửi một ký chỉ khoảng 8 cu-run, nhưng tao còn phải ngoại giao với sân bay để có chỗ mà gửi đều về cho mọi người chứ.
          - Có đông người gửi không ?
          - Nhận không xuể. Bọn sứ quán cũng có người đăng ký gửi vào đây. Mày yên tâm đi.
          Lê Văn Thành bấm ngón tay tính toán:
          - Hiện vốn liếng tao có 3 tháng lương nghiên cứu sinh với hơn 500 đô lúc đi vay mượn mang theo.
          - Còn hơn tao lúc ban đầu nhiều.
          - Vậy thì gửi những gì về ?
          - Mọi người thường gửi xe đạp, máy khâu, vải, thuốc…Nếu mày đồng ý thì có bao nhiêu cứ đưa để tao liệu. Ghi địa chỉ, tên người nhận ra đây. Vợ mày đi nhận chứ gì ?
          - Ừ, cô ấy hiền lành chậm chạp lắm.
          - Rồi quen tất ! Cái Thanh lúc đầu cũng thế, bây giờ chuyên môn rồi.
          Nói đến đây Bùi Khoái bỗng thở dài, Lê Văn Thành liếc nhìn thấy ánh mắt anh ta bỗng buồn thượt.
          - Đã 4 năm mày xa vợ rồi đấy nhỉ.
          - Gần 4 năm.
          - Ở nhà tụi nước ngoài về thường đọc câu “4 năm trấn thủ lưu đồn, cái gì cũng có cái ấy thì không”. Tao hỏi thật nhé, khoản ấy mày làm thế nào, hay là tịt rồi ?
          - Thiếu đếch gì ! Rồi ít hôm nữa tự mày khắc biết.
          Lê Văn Thành nấn ná ở chơi thêm mấy hôm vì sợ về Li-bê-rét một mình lại cô đơn. Bùi Khoái dẫn anh đi thăm mấy cô bạn trong đoàn Việt Nam làm việc ở nhà máy chế biến thịt gà. Đoàn này toàn con gái, trong tủ lạnh của các cô chất đầy gà đã giết mổ, khách đến chơi tặng vài con là chuyện thường, có người hỏi mua thì bán với giá rẻ chỉ bằng một nửa giá ngoài mậu dịch. Mỗi lần tới đây mua gà giá rẻ của các cô, Bùi Khoái thường bấm bụng cười, nhớ câu “thợ may ăn giẻ, thợ vẽ ăn hồ, thầy đồ ăn giấy”, đúng là mỗi nơi một kiểu kiếm ăn.Thấy có hai anh kỹ sư phong độ đến chơi, các cô gái tụ tập lại trong phòng khu nhà tập thể, đem  ô mai người nhà gửi sang ra đãi khách. Một cô còn 2 cái bánh cốm để tủ lạnh đã hơi rắn nhưng vẫn ép hai anh ăn bằng được.Toàn những thứ hợp với nước chè Thái Nguyên, thấy các cô pha đặc quá, Thành hỏi :
          - Các em uống chè đặc thế không sợ mất ngủ à.
          Một cô cười khanh khách trả lời :
          - Sợ gì anh, đêm nay em không ngủ, ngày mai em ngủ bù !
          Các cô phá lên cười. Lê Văn Thành để ý thấy Bùi Khoái cứ tự nhiên ngồi sát vào các cô, xoa tóc em này, bá vai em kia mà chẳng ngượng ngùng. Thành nghĩ có lẽ Bùi Khoái nói đúng, cái khoản kia chắc không khó khăn gì lắm. Đang bả lả với các em thì Bùi Khoái chợt xem đồng hồ rồi đứng phắt lên, bảo đi về kẻo hết xe buýt. Khi hỏi mua mấy con gà cho Thành đem về Li-bê-rét thì các cô liền tặng anh một túi 5 con, lại còn kéo nhau vui vẻ tiễn hai anh ra tận bến xe.
 Thành và Khoái phải đi một trong mấy chuyến xe buýt trống khách cuối cùng. Đường từ trạm xe về nhà vắng ngắt. Bỗng Thành kéo Bùi Khoái đứng lại, chỉ tay về phía chiếc xe con đỗ trong bóng tối dưới một gốc cây.  
          - Này, cái thằng giờ này còn ngồi trong xe kia trông như dân đầu đen ấy.
          Bùi Khoái thoáng chút cảnh giác nhìn về chiếc xe nhưng anh lại nghĩ thiếu gì bọn đầu đen đi ô tô riêng, họ có thể là Triều Tiên hay Trung quốc. Tuy vậy, khi leo cầu thang lên đến tầng một, anh ta cũng chột dạ thấy 3 người châu Á đi xuống, cả 3 đều mặc măng tô màu đen, đội mũ phớt đen, tay đút trong túi áo. Họ cúi mặt đi thẳng, không để ý đến những người vừa lên. Nhờ ngọn đèn ở cầu thang mà Bùi Khoái vẫn nhận ra bọn này là dân da vàng. Tuy vậy, về đến phòng, hai người quên ngay vì phải lục xục đóng hàng để hôm sau Thành về Li-bê-rét sớm, mãi đến 3 giờ sáng mới đi nằm. Thao thức không ngủ được nên Thành thức dậy rất sớm, lấy trong cặp ra một gói tiền đưa Bùi Khoái.
          - Tao có tất cả tưng đây, mày muốn gửi gì về cho vợ tao cũng được, nhưng cần phải nhanh, cứu đói cho lũ trẻ.
          Bùi Khoái còn ngái ngủ, vừa ngáp vừa cầm gói tiền dúi xuống đầu giường. Nhớ lại mấy cái đầu đen,Thành nói :
          - Khoái này, tao thấy mấy người mình gặp đêm qua có vẻ bí ẩn lắm. Ở khu nhà này có còn người Việt mình thuê không ?
          - Không, chỉ duy nhất có tao. Nhờ bạn là người Tiệp thuê hộ mà.
          - Thế thì mày phải để ý, tao thấy chúng nó rất giống người Việt. Chúng lên đây làm gì ?
          Bùi Khoái vụt đứng dậy, vươn vai :
          - Thôi, kệ mẹ chúng nó, sợ đếch gì. Khẩn trương ra tàu chứ không muộn mất.
          Họ cùng nhau kéo hai bịch hàng ra thang máy, kín đáo nhưng nhanh nhẹn. Thành lẩm bẩm :
          - Có vẻ mày nói tục chửi bậy nhiều hơn lên đấy !
          - Thằng đếch nào ra ngoài chợ búa kiếm tiền mà không chửi tục !
          Bùi Khoái đợi cho Thành lên tầu xong mới  đi thẳng từ ga về nhà máy. Qua mấy ngày ở cùng Lê Văn Thành, anh thấy tâm trạng vui vẻ hơn, họ đã cùng nhau nhắc lại bao kỷ niệm, đã đùa vui, trêu chọc lẫn nhau. Anh đã quên đứt chuyện tối hôm qua gặp mấy người lạ ở cầu thang nơi ở. Đến cổng nhà máy Bùi Khoái thấy một người tên là Đức đang đứng đợi ai, vẻ hoảng hốt như vừa xảy ra chuyện gì nghiêm trọng. Đức là công nhân trong đội của Bùi Khoái, người Phục Lễ, Thủy Nguyên, nói bỏ dấu nên bị trêu chọc suốt, hễ thấy anh ta ở đâu là chị em lại hò nhau réo to  : “Anh Đưng ơi anh đéo em với” (anh Đức ơi đèo em với) ! Vừa thấy Bùi Khoái đi vào, Đức vội lôi ngay anh ta lại.
          -Số anh hên quá-Đức thốt lên. Đêm qua mấy thăng em quen  do thăng Đẻn cầm đầu kéo đến tìm anh, định vay đểu anh ít tiền, đợi mãi không thấy anh nên chúng nó bỏ đi.
          Trong đầu Bùi Khoái hiện ngay lên hình ảnh  mấy người mặc măng tô đen đi từ trên gác xuống. Đức vo tay, mắt liếc ngang liếc dọc, dáng điệu ấy báo trước những điều không tốt đẹp gì.
          - Làm sao mày biết được nó đến vay đểu tao ?-Bùi Khoái hỏi.
          -Chúng nó lượn  quanh nhà máy theo dõi anh từ mấy hôm nay, thằng Đẻn vô tinh gặp em, nói như vậy. Nó học với em từ phô thông. Bọn này trấn lột khét tiếng đấy anh ạ. Em bảo chúng no rồi, rằng anh là ông anh của chúng tao, chúng mày làm ở đâu tao không biết nhưng tránh chỗ ấy cho tao nhơ. Nói thế mà chúng nó vẫn đến tim anh.
          - Thế bây giờ chúng nó ở đâu ?
          - Em không biết, nhưng chắc còn quanh đây, anh phải cẩn thận.
          - Được rồi, cám ơn chú. Theo chú thì bây giờ anh phải làm thế nào ?
          -  Hay là bao công an Tiệp ?
          - Ờ, để anh tính.
          Từ lúc ấy đầu óc Bùi Khoái luôn vướng bận những câu chuyện khủng khiếp mà anh nghe được về bọn này. Dính vào chúng, cái giá phải trả là vô kể. Chúng tìm đến Bùi Khoái chắc vì anh đã có chút tiếng tăm, đúng là “hữu xạ tự nhiên hương”, Bùi Khoái chép miệng nghĩ vậy. May mà đêm qua anh và Thành đã chơi ở chỗ các cô gái về rất khuya, ở nhà gặp chúng có khi có ít tiền, kể cả số tiền của Thành, chúng cũng sẽ trấn sạch. Bây giờ chúng đã để mắt tới nên phải tìm ra một cách gì mà đối phó, may mắn cũng chỉ một lần, đâu có mãi được. Một người chuyên buôn bán bất hợp pháp như Bùi Khoái cũng chỉ là một phần tử bất hảo dưới mắt công an, vì thế chắc chắn không nên chọn cách  khai báo. Chủ động gặp xem chúng cần gì rồi thương lượng, kể ra hơi liều nhưng có vẻ như thế lại hơn. Đằng nào cũng không có lựa chọn khác, Bùi Khoái liền nhờ Đức hẹn gặp chúng ở phố Mút-xtếc.
          Bọn này nhận lời ngay. Chúng đến rất đúng hẹn. Đang đứng lơ vơ chờ đợi, Bùi Khoái thấy trong đám đông qua lại xuất hiện 4 người mặc măng tô đen trùm kín cổ, đầu đội mũ phớt giống như các thám tử trong phim trinh thám. Tim đập rộn rã hơn lên, Bùi Khoái biết mình đang lo lắng hồi hộp nên định lẩn đi theo dõi thêm. Tuy nhiên anh không làm thế mà hít thở sâu cho trấn tĩnh lại rồi tiến ra vẫy tay cho chúng biết, kéo chúng đến một tiệm giải khát. Khi đã ngồi vào bàn cẩn thận, một thằng nhìn như soi vào mặt Bùi Khoái, hỏi :
          - Người của anh đâu ?
          - Tao đi một mình.
          Nhếch mép trả lời như thế rồi Bùi Khoái vẫy tay gọi chai rượu nhẹ Xi-za-nô đồng thời xổ ra một tràng tiếng Tiệp với anh chàng phục vụ, nói rất nhanh khiến bọn kia không hiểu anh nói cái gì. Một thằng trong bọn có dáng người mập chắc tỏ ra nghi ngờ, xấn xổ hỏi :
          - Anh bảo nó gọi công an đấy à ?
          Bùi Khoái quắc mắt nhìn thằng này, tay vẫn rót đều rượu ra 5 chiếc ly.
          - Mày không biết tiếng Tiệp à ? Nó thấy chúng mày ăn mặc như thám tử nên mới hỏi chúng mày có phải công an không. Tao nói không, chúng mày là bạn.
          Bốn thằng ồ lên một tiếng, toét miệng ra cười. Bùi Khoái chuyển rượu cho từng đứa, nói “Nào, uống đi !”. Cái thằng đã nhìn soi vào mặt Bùi Khoái là thằng có dáng người cao và gầy, đỡ ly rươu đưa lên miệng làm một hơi, đặt mạnh chiếc ly không xuống bàn nghe phát ra một tiếng keng nhẹ. Hắn lại nhìn thẳng vào mặt Bùi Khoái khiến anh rất khó chịu.
          - Hôm trước bọn em đến tìm anh, định mượn ít tiền nhưng anh không có nhà, sau mất hứng không đợi nữa. Hôm nay anh chủ động gặp bọn em, lại đi một mình thế này làm chúng em rất kính nể, thế thì anh để chúng em gọi anh là đại ca !
          Bùi Khoái chưa biết câu chuyện sẽ dẫn tới cái gì nhưng thừa biết chúng đang vờn anh, như mèo vờn chuột, chỉ đợi đến lúc con mồi sợ hãi mềm nhũn ra là nhảy lên vồ lấy xé xác. Gọi là đại ca cũng là cách cho anh đi tàu bay giấy, bay cao rồi bắn hạ cho nhanh. Anh không trả lời, tỏ ra cảnh giác. Thằng này lại nói tiếp :
          -Anh biết thừa chúng em là dân lang thang, không nhà không cửa, không giấy tờ hợp pháp, sống nay đây mai đó, vì thế mà bị mọi người xem thường gọi chúng em là dân “hộ tịch pháp”. Hừm, hộ tịch pháp thì làm sao !
          Thằng này “hừm” lên một tiếng nữa, nhấc cái ly không đưa lên miệng hít lấy giọt rượu còn sót ở đáy rồi đặt mạnh cái ly không trở lại. Bùi Khoái nghe tiếng “hừm” của nó mà ớn, chẳng khác tiếng gầm gừ của một con chó dữ. Anh nhanh tay rót đầy ly rượu cho nó. Nó đón lấy, nói :
          - Chuyện mượn tiền bây giờ mất hứng rồi.
          Bùi Khoái nói quá lên, cốt nắn gân bọn này và ra điều ta cũng chẳng vừa :
          - Đã có người báo trước cho tao. Mà tao cũng chẳng lấy đâu ra tiền cho chúng mày mượn.
          - Đứa nào dám báo cho anh ?
          - Không thiếu. Chúng mày làm gì, ở đâu, nếu muốn là tao biết được ngay.
          - Anh nói thế nào ấy ! Nhưng thôi, không nói chuyện tiền nữa. Ta nói chuyện khác.
          - Chuyện khác là chuyện gì ?
          - Chỉ cần anh cho chúng em đến ở nhà anh, giúp chúng em có chỗ nghỉ mỗi khi về Pra-ha.
          Như một phản xạ của thói quen, Bùi Khoái  khoát tay nói, gần như không suy nghĩ :
          - Ồ, chuyện ấy đơn giản, không khó gì.
          Nói xong mới thấy mình bị hớ nhưng lời đã nói ra không thu lại được. Để giấu khuôn mặt đuỗn ra vì ân hận, Bùi Khoái tự rót cho mình ly rượu, ngửa cổ làm cái ực. Thằng béo mập cũng một hơi hết ly vừa rót, xấc xược hỏi :
          - Bao giờ đưa chìa khóa ?
          - Ừ...Có thể mai.
          Chúng reo lên :
          - Anh chịu chơi quá, đúng là đại ca. Thế mà chúng nó bảo anh là kỹ sư, chơi với anh rắn lắm !
          Đến lúc này Bùi Khoái đã chắc bọn chúng đều ít tuổi hơn mình, anh tự tin hỏi lại :
          - Kỹ sư thì không đại ca được à ? Bây giờ thế này, tao chắc các chú thích rượu mạnh, để tao gọi chai uýt-ki.
          - Bra-vô anh ! Gọi đi.
          Bùi Khoái ngoắc tay gọi ra một chai uýt-ki đỏ. Rót đầy ly, anh nói :
          - Nào, cạn ly. Chắc các chú đã biết tao rồi, giờ các chú cũng phải cho tao biết tên các chú chứ !
          Thằng cao gầy là thằng đã nhìn soi mói vào mặt Bùi Khoái nói :
          - Em là Đẻn, đồng hương với anh. Hai thằng này là Hợi và Quý, dân Nghệ Tĩnh. Còn đây là Son, Hà Nội thứ thiệt đấy, là sinh viên ở Liên Xô hẳn hoi, bỏ học đi làm “bộ đội” ở sân bay Xê-rê-mét-ti-vô chán rồi sang đây làm ăn với chúng em. Gia Cát Lượng của băng Đẻn này đấy.
          Nghe cách Đẻn giới thiệu đầy tự hào về cái lai lịch ấy, Bùi Khoái biết Son mới chính là thủ lĩnh của tụi này.Vậy thì có thể chính là thằng Son đã bày cho băng Đẻn để mắt tới Bùi Khoái. Bùi Khoái kín đáo liếc nhìn Son, thấy mặt nó bì ra, lạnh tanh mà ghê ghê. Đấy chỉ có thể là bộ mặt của một thằng du côn, một vẻ mặt lì lợm, bất chấp, làm tới. Bùi Khoái nhếch mép cười, lại hò chúng nó uống rượu để cố giấu tình cảm ghê sợ của mình trước bộ mặt đầy vẻ đểu cáng.
          - Nào, mình uống hết chai này rồi giải tán, tao còn phải về làm việc. Sáng mai các chú ghé qua sớm, tao đưa chìa khóa. Tao chỉ ra cho các chú một điều kiện.
          Đẻn hỏi :
          - Điều kiện gì ?
          - Đừng có rước công an đến nhà tao là được. Còn phải để đường cho tao làm ăn.
          - Ồ, tất nhiên, tất nhiên. Đại ca khỏi lo !
          Sau buổi gặp gỡ ấy có hai lần tụi này đến nhà Bùi Khoái. Chúng xách theo một túi bánh mỳ, một túi xúc xích và mấy chai rượu Lúa Mới, lôi thôi lếch thếch như mấy ông lão say xỉn ngồi ăn xin ở ga tàu điện. Tuy nhiên chúng tỏ ra rất vui vẻ, hồn nhiên mở tủ lạnh của Bùi Khoái lôi ra nửa con gà ngồi ăn uống với nhau thoải mái, ăn xong lăn ra sàn ngủ bất chấp tiếng ngáy ran của thằng Son. Bùi Khoái nhăn mũi khó chịu khi thấy trong phòng của mình bỗng chốc bốc lên mùi hôi của những cơ thể lâu ngày không tắm giặt, mùi bít tất thối quyện với mùi chua khẳn của bánh mỳ, xúc xích và rượu ợ lên từ 4 cái dạ dày. Ngủ một mạch, đến sáng bỏ đi, sau biến đâu không biết khiến Bùi Khoái nhiều khi cũng quên bẵng chúng.           Chuyện ấy thế mà đã lan truyền khắp nơi, làm cho ngày càng có nhiều bạn hàng mới hâm mộ Bùi Khoái, trong số đó có một người tên Thực. Thực là cấp dưỡng kiêm phụ trách nhà khách của cái văn phòng buôn bán gần nhà Bùi Khoái. Thực đã ở Pra-ha 3 năm mà một tiếng Tiệp bẻ làm đôi không học được. Hồi mới đến, anh ta nấu cơm chỗ khô chỗ nhão, bắp cải luộc thì dừ như bắp cải ninh, rang thịt quên bỏ muối, mãi sau nhờ anh em góp ý nên biết thêm rán trứng. Một lần thủ trưởng cơ quan tiếp cơm mấy vị khách trong nước sang, có món trứng rán của Thực, ai đụng vào một miếng cũng nhăn mặt nhưng không dám lè ra, hỏi mới biết Thực đã đổ muối thay vì mì chính. Về sau anh em trong cơ quan không muốn góp ý cho Thực về những sai sót như thế khi biết trong nước anh ta không phải là cấp dưỡng mà làm bảo vệ ở một cơ quan, vì là cháu của một vị lãnh đạo nên được ra nước ngoài nấu ăn cho bếp tập thể. Không mấy khi bước chân ra khỏi cổng cơ quan nhưng Thực vẫn là một đầu mối nổi tiếng, tiền vào ra như nước chảy, điều hành cả nghiên cứu sinh, thực tập sinh đánh hàng cho mình. Nhiều anh em trong cơ quan mới đến cũng như những cán bộ trong nước hoặc các nước khác qua lại đây có ít hàng muốn đẩy đi hoặc muốn lấy vào đều phải nhờ đến Thực, ấy là chưa nói đến việc phải cầu cạnh để được vào ở trong nhà khách. Vì gần  nên Bùi Khoái đã tìm cách gửi hàng vào cơ quan Thực. Khoái đi tìm Thực, mang theo 12 cái đồng hồ điện tử để trong một chiếc hộp các tông nhỏ xinh. Vừa đến cổng thấy một chiếc tắc-xi đỗ xịch lại, từ trong xe hớt hơ hớt hải chui ra một người Việt, lôi theo chiếc va-li to màu xanh. Anh này túm ngay lấy Bùi Khoái hỏi :
          - May quá gặp đồng hương đây rồi. Đồng hương cho tôi hỏi tìm anh Thực ở đâu ?
          Bùi Khoái u ơ nhìn người vừa đặt câu hỏi rõ ràng là cho mình nhưng anh ta nói tiếng chọ chẹ, làm sao là đồng hương được. Không bận tâm lắm tới dáng vẻ vội vàng sốt ruột của anh ta, Bùi Khoái thong thả trả lời :
          - Tôi cũng đang đi tìm anh Thực.
          - May quá, vậy tôi theo anh  nhé. Nhanh lên.
          Không hiểu sao anh này vội thế, xăng xái chạy lên trước Bùi Khoái trong cái hành lang nhà khách chật hẹp có những kiện hàng được xếp chất lên nhau và được chiếu sáng bởi mấy chiếc bóng đèn u ám, tiếng giày anh ta nện cồm cộp vội vàng. Đến trước gian phòng có ghi số 15 trên cánh cửa đóng im ỉm, anh ta do dự một chút rồi bỗng tự tin gõ mạnh, tiếng cửa gỗ kêu lên cốc cốc. Một cái đầu đen thò ra, đúng hơn là một cái mũi to và sần sùi bất thình lình thò ra khiến anh chàng gõ cửa phải nhảy lùi lại. Anh ta không biết đấy chính là cái đầu của người lái xe trong cơ quan.
          - Ấy chết, xin lỗi anh. Xin hỏi anh Thực ở phòng nào ?
          Cái đầu vừa thò ra tức tối hất một cái về phía ngược lại rồi nhanh chóng thụt vào, cánh cửa đóng sầm. Tuy cửa đóng rất nhanh nhưng Bùi Khoái vẫn nghe được tiếng một bài hát Việt vọng ra, và khi liếc mắt nhìn vào vẫn thấy có hai cô gái mặc đồ mỏng manh nằm ngả ngớn trên giường. Không phải nhìn tận mắt Bùi Khoái cũng biết đấy chắc phải là mấy cô hợp tác lao động ở tỉnh xa về nhờ vả đánh hàng. Ý nghĩa cái hất đầu thật không rõ ràng nhưng cũng đủ để Bùi Khoái hiểu là muốn tìm Thực thì đi hướng ấy. Hai người quay ngược lại cuối hành lang, ở đấy có căn phòng ghi số 11. Thực mở cửa, miệng nở một nụ cười gọi là có :
          - Ơ Bùi Khoái, anh đi với ai thế này ?
          - Tôi đi một mình, gặp anh ấy ở ngoài cổng cũng đang tìm anh.
          - Vậy à ! Thực nheo mắt nhìn chòng chọc người khách lạ khiến Bùi Khoái nghĩ nên biếu cho Thực một chiếc kính chiếu yêu loại xịn hơn là đút cho mớ đồng hồ. Nhưng không sao, đằng nào thì anh cũng mang theo đồng hồ rồi. Sau khi đã dò xét người khách lạ từ đầu đến chân, Thực dè dặt hỏi :
          - Tìm tôi có việc gì ?
          - Tôi mới vừa từ Ý qua đây, có việc phải ở lại vài ngày nên nhờ anh thu xếp cho ở nhà khách rồi đăng ký vé về Việt Nam hộ.
          Thực lắc tít cái đầu tóc hoa râm, ở Việt Nam gọi là lắc đầu nguây nguẩy :
          - Không được, lấy đâu ra phòng mà ở những mươi ngày !
          Tuy lắc đầu mãnh liệt như thế nhưng Bùi Khoái nhận thấy rõ nét mặt của Thực dãn ra, mắt lóe lên một tia sáng khi nghe nói anh này từ Ý về. Biết thừa những người ở mấy nước tư bản đi qua ai chẳng mang theo ít đô-la. Có lẽ cái biết thừa ấy làm cho giọng Thực dịu đi khi hỏi người khách giấy tờ tùy thân.
          - Tôi tên là Lai, đây là hộ chiếu của tôi.
          Lai đưa hộ chiếu rồi nhanh nhẹn mở nắp va-li, lôi ra 2 chiếc quần bò xanh nâng lên cho Thực. Không một chút ngại ngùng, ông phụ trách nhà khách giơ hai tay đỡ cặp quần  bò trong khi mắt vẫn liếc xéo soi vào cái va-li làm Bùi Khoái lại nghĩ đến cặp kính chiếu yêu.
          - Có đầu máy khâu hả ?- Thực hỏi trống không.
          Vị khách đóng xập cái nắp va-li. Thay vì trả lời câu hỏi của Thực thì anh ta ngửa cổ đọc rất tự nhiên :
          “Khen cho dân Việt thật tinh
          Nó sang nước mình mua máy xanh-gie
          Đạp chân là máy nó mê
          Máy loại chạy điện nó chê máy tồi”.
          Đọc xong rồi cứ thế cười lên sằng sặc. Thực cũng nở miệng cười, nói :
          - Anh Lai đi theo tôi. Bùi Khoái đứng đợi chút nhé.
          Họ kéo nhau lên gác. Một lúc sau Thực quay lại, ngoài hai chiếc quần bò vẫn cầm trên tay, Bùi Khoái còn thấy tay kia anh ta khệ nệ xách cái đầu máy khâu.  
          - Thằng cha này ở Rôm qua, khá phết-Thực vui vẻ nói và kéo Bùi Khoái vào phòng. Gian phòng khá rộng nhưng tối tăm và bừa bộn, lủng củng những đầu máy khâu cũ. Không có ghế nên Bùi Khoái gieo mình ngồi xuống chiếc giường cá nhân có trải một tấm đệm lò xo vải bọc đã vàng khè, chiếc đệm võng xuống, chân Bùi Khoái đụng phải những chiếc đầu máy khâu lăn lóc dưới gậm giường, những tuốc-nơ-vít, kìm, búa lộn xộn hết cả. Bùi Khoái vừa nhún nhảy trên chiếc đệm lò xo, vừa nói :
          - Nhà ông như cái kho chứa máy khâu cũ thế này !
          - Cẩn thận không đá chân vào lọ dầu máy của tôi để dưới gầm giường. Tôi tự mầy mò học cách sửa chữa máy khâu cũ đấy-Thực nói. Biến cũ thành mới, ông không biết đâu, thú vị vô cùng.
          Thực vứt 2 chiếc quần bò lên đầu giường, cẩn thận đặt rất nhẹ chiếc đầu máy khâu xuống nền nhà rồi vội vàng vơ hai cái quần xi-líp đàn bà mầu hồng vắt ở thành ghế nhét vào ngăn kéo chiếc tủ đứng, động tác rất nhanh nhưng không giấu được Bùi Khoái. Làm xong việc đó anh ta xoa tay, ghé sát vào tai Bùi Khoái nói, vẻ hoan hỉ sáng ngời trên mặt.
          - Ở đây người ta vứt đi, đem về nhà cũng được mỗi cái một chỉ. Ông đến chơi hay là có việc gì ?
          Không cho rằng cái đầu máy khâu và 2 chiếc quần vừa thấy là của vứt đi như Thực nói, Bùi Khoái cười bông lơn :
          - Tôi chẳng có gì vứt đi như thằng cha kia, chỉ xin biếu ông mấy chiếc đồng hồ làm quà, nhân thể đặt vấn đề với ông cho gửi ít hàng vào cơ quan. Lấy bồi dưỡng của mọi người thế nào tôi xin gửi ông đủ như thế.
          Chỗ này là nơi gửi hàng lậu an toàn nhất cho những người buôn lậu. Đã có gần chục người thông qua Thực để được gửi hàng ở đây, thuốc kháng sinh lanh-cô-xin từ An-giê-ri về, thuốc bổ Xê-rê-pa ở Hung-ga-ri sang cho đến bàn là, quạt tai voi Liên Xô, mắt kính Đức…,thượng vàng hạ cám cái gì cũng có. Vì đã biết tiếng nhau trong làm ăn nên Thực dễ dàng chấp nhận yêu cầu của Bùi Khoái. Anh ta thích thú giơ mấy chiếc đồng hồ lên soi, căn dặn :
          - Chúng mình giúp nhau không có vấn đề gì nhưng phải cẩn thận với mấy người ghen ăn tức ở trong cơ quan, đừng để họ bới móc ra mệt lắm.  
          Một hôm Bùi Khoái mang một va-li to băng cát-xét vào gửi, xong việc đã quá trưa nên Thực mời ở lại ăn cơm bếp tập thể. Bùi Khoái nhận lời ngay, phần vì bụng đã đói, phần cũng muốn thử xem cán bộ người ta ăn uống ra thế nào. Anh ta theo Thực đi vào một cái cầu thang vòng tròn, ở các góc đều chồng chất những thùng các-tông to đóng đai hoặc chằng buộc cẩn thận. Thực bảo “Hàng bọn chúng gửi đấy”. Bếp ăn là một cái phòng nhỏ dưới tầng hầm kín như bưng, tường ốp gạch men trắng, được chiếu sáng bằng hai bóng đèn tuýp thì một bóng cứ tanh tách nhấp nháy mà không sáng lên được. Một cái bảng màu xanh treo trên tường làm bảng báo cơm, có tên 5 người tất cả, ai ăn đánh dấu nhân bằng phấn trắng, ai cắt cơm thì viết số không gạch đít. Bùi Khoái tò mò :
          - Nấu cho 5 người ăn thì cấp dưỡng nhàn quá, tha hồ mà đi săn hàng !
          -Ờ, ừ…Còn nấu cả cho khách nữa chứ. Thứ bảy chủ nhật thường không có ai ăn.
          - Họ đi đâu cả ?
          - Lạ gì mà còn hỏi !
          Bùi Khoái nghĩ đúng là đã hỏi một câu hỏi thừa, họ không đi săn hàng thì còn đi đâu, làm gì có chuyện lên tháp truyền hình uống cà phê hay đi thăm bảo tàng lịch sử. Thức ăn đã được chia thành từng xuất để sẵn ở trên một cái giá gỗ đánh véc-ni màu nâu. Thực lấy ra hai xuất đặt  trước mặt Bùi Khoái. Anh ta nhìn vào, thấy mỗi xuất có mấy gắp bắp cải luộc và vài miếng thịt  ba chỉ dầy mỡ rang mặn. Bùi Khoái chờ đợi có thêm một món gì nữa nhưng chỉ thấy Thực lấy một cái bát to đi ra cái xoong nhôm to đặt trên bếp, múc một bát nước, có vẻ như nước xương ninh vì có mỡ nổi váng lên nhưng trong đó chỉ lèo phèo mấy lá bắp cải. Bùi Khoái hỏi :
          - Tôi ăn bất thình lình thế này có phạm vào xuất của người khác không ?
          Thực vừa xới cơm vừa trả lời :
          - Ông đừng lo, giờ này còn cơm trên chạn tức là toàn cơm ế. Người ta đi ăn cơm khách bất thình lình, không kịp cắt, mình không ăn họ cũng bỏ ấy mà.
          - Ra thế. Cán bộ mà ăn đơn giản thế này thôi à ?
          - Lương ít thì chỉ có thế. Buổi chiều mỗi người bát phở là xong. Cứ tính đủ một nghìn bát phở là hết nhiệm kỳ.
          - Gớm, các ông cần gì lương. Buôn bán được như ông làm gì có ai theo kịp, tiền nhiều như quân Nguyên, để đâu cho hết !
          Đang và miếng cơm mặt Thực bỗng xệ xuống, mấy nốt rỗ trên mặt hiện ra rõ hơn. Có thể câu nói của Bùi Khoái đã vô tình chạm vào nỗi đau xót trong lòng anh ta. Người ta truyền tai nhau rằng Thực buôn bán kiếm được vô số tiền nên bọn ma-phi-a ở Nga đã bắt giữ đứa con trai duy nhất của anh ta đang học năm thứ 3 đại học mỏ ở Min-skơ, đòi Thực 1 triệu đô để chuộc về. Thực tiếc tiền, không chịu bỏ ra, đứa con trai mất tích từ bấy đến giờ. Có khi đây chỉ là một câu chuyện đồn đại, trong những câu chuyện ấy thật giả lẫn lộn không biết thế nào mà phân biệt. Có điều, nếu ai vô tình bảo Thực kiếm được nhiều tiền biết để làm gì cho hết thì mặt anh ta bao giờ cũng tối sầm lại, trong lòng dội lên một tiếng nấc. Bùi Khoái vội lảng đi :
          - Tôi nghe nói sắp có người sang thay ông Tuyển, phụ trách thanh niên học sinh. Ông Tuyển là bạn tôi sắp về nước.
          - Đúng rồi, người sang thay là Lạng, tuần sau đi đón. Ông biết Lạng à ?
          - Không.
          - Chưa sang mà đã nghe nói anh này buôn bán giỏi lắm, lại có cô em sinh viên năm thứ 4 ở Pra-ha. Hai anh em kết hợp với nhau thì phải biết !
          Những điều mọi người xì xào bàn tán về Lạng quả nhiên không sai. Anh này mới sang được hai tuần đã có tiền mua ngay một chiếc xe Lát-đa màu đỏ làm xe riêng, tuy là xe cũ nhưng máy còn tốt, sơn còn bóng đẹp. Lạng có hộ chiếu đỏ nên việc đi lại rất thuận lợi, anh ta thường xuyên đi Bra-tít-xla-va, Bu-đa-pét, Béc-lanh, Vác-xa-va, tất nhiên những chuyến đi như thế chỉ có một phần công việc còn chín phần là kết hợp. Vì vậy trong thùng xe bao giờ Lạng cũng để sẵn một chiếc va-li màu đỏ rất to. Xe đỏ, va li đỏ, hộ chiếu đỏ, có vẻ như màu đỏ là mầu mệnh chủ của anh này. Lạng được ra vào mua hàng ở tu-dếch là cửa hàng mậu dịch giao tế chuyên bán cho những người có hộ chiếu đỏ. Lúc này các loại rượu và thuốc lá ngoại được chợ đen rất ưa chuộng, trong chiếc va-li đỏ của Lạng để ở cóp xe lát-đa bao giờ cũng chất đầy những mặt hàng này. Mới đến được mấy ngày, thông qua cấp dưỡng Thực, Lạng đã tìm đến Bùi Khoái làm quen, sau đó những lúc hàng nhiều mà cần tiêu thụ nhanh, Lạng lại tạt qua ném cho Bùi Khoái, cả hai người đều kiếm được khá tiền. Một buổi sáng thứ bảy, Bùi Khoái thấy chiếc xe lát-đa màu đỏ từ từ đỗ lại trước cửa nhà mình. Lạng mở cửa xe bước ra, nổi bật trong bộ com-lê màu xanh nước biển, cổ thắt cà-vạt màu đỏ, đầu chải bóng mượt, trông anh ta vừa tươi trẻ, vừa nghiêm nghị. Lạng đi tay không, vậy là Bùi Khoái biết anh này đến không phải để kiểm tra mình, cũng không phải để làm việc. Bùi Khoái hỏi đốp luôn :
          - Anh diện oách thế này  phải đi làm việc với thanh niên chứ, sao lại đến tìm tôi ?
          Lạng chìa tay bắt tay Bùi Khoái lắc mạnh.
          - Anh Khoái khỏe không, trông anh có vẻ mập ra đấy nhé.
          Thường mọi khi vứt hàng cho Bùi Khoái xong là Lạng bỏ đi luôn, chẳng mấy khi vui vẻ thế này. Bùi Khoái lạ lùng hỏi :
          - Anh có phi vụ gì mới à ?
          Lạng ngồi xuống chiếc ghế dựa cũ đối diện với Bùi Khoái, hỏi nhỏ :
          - Có ai đến lấy hàng bây giờ không ?
          - Không có, sao lại hỏi thế ?
          - Có chuyện này. Bây giờ thuốc lá đang chạy, tiêu thụ nhanh nhưng lại khó tìm. Tôi có người quen ở Đức, có thể mua được khối lượng lớn. Anh tham gia với tôi, chúng mình làm thành một đường dây từ A đến Z, mang thuốc lá về đây, nhất định thắng lớn. Anh Thực đã xin tham gia. Nói thật với anh tôi không thích lão ấy, tiếng tăm đã chẳng biết mà kiêu chết được.
          Đấy là một lời đề nghị ngọt ngào, chắc chắn mở ra những triển vọng thật tươi sáng về lợi nhuận. Làm ăn với những người như Thực và Lạng có nhiều cái lợi, người có hộ chiếu đỏ, kẻ có xe mang biển ngoại giao nên không bị kiểm tra. Hàng lấy từ tu-dếch, Bùi Khoái biết, mỗi lần ít cũng được 50 tút thuốc lá ba số hoặc Man-bô-rô, 50 chai rượu Na-pô-lê-ông hoặc Uýt-ky, tưng đấy cũng đủ chia nhau một cách rộng rãi. Nhưng tại sao Lạng lại rủ thêm Bùi Khoái ? Mỗi lần nghĩ tới anh chàng này, Bùi Khoái cho rằng trong nước chắc đã có rất nhiều thay đổi nên một cán bộ vừa mới đến như Lạng mới có thể táo tợn làm ăn như vậy.Nhớ lại người bạn là Tuyển mà Lạng vừa sang thay, anh ta đâu có thế. Tuyển và Bùi Khoái đã cùng học cấp ba ở Thủy Sơn. Một lần đi thăm anh em lao động ở nhà tập thể, vì nghe tiếng cười mà Tuyển biết Bùi Khoái đang ở đây, chủ động tìm Khoái hàn huyên về những ngày lớp 10. Khi chỉ có hai người, Bùi Khoái gợi ý việc làm ăn thì Tuyển chỉ cười nói tớ là cán bộ, tớ không làm được như các cậu. Vậy mà giờ người sang thay Tuyển đã hoàn toàn khác. Điều đó làm cho Khoái có chút e ngại. Từ lâu nay Bùi Khoái đã trở thành một kẻ tham lam thật sự, không dễ gì mà buông bỏ những cơ hội làm ăn đến với mình. Tuy thế, trong vụ này, bằng linh cảm của những năm tháng vật lộn vừa qua, anh ta lại thấy có cái gì khá bấp bênh, khá nguy hiểm, nói cách khác phải liều có thừa mới dám tham gia vào đường dây này. Bùi Khoái tự thấy mình chưa đủ liều nên đã trả lời Lạng :
          - Tôi rất cám ơn anh, nhưng nói thật, tôi còn yếu lắm, không có khả năng đi cùng với anh trong vụ này được. Chỉ cần như mọi khi, lúc dồi dào anh ném cho tôi một ít là được.
          Lạng chẳng có vẻ gì thất vọng trước lời từ chối thẳng thừng, chỉ cười nói :
          - Thế mà nghe đồn anh ghê gớm lắm, hóa ra là hão !
          - Vâng, đúng là toàn hão.
          Lạng nói tỉnh bơ :
          - Lúc này trong nước khó khăn nên người ta cũng mở cho chúng tôi tìm đường kinh doanh để có thêm kinh phí hoạt động, tưởng anh có năng lực thì cùng làm. Có gì đâu ! Đất nước hiện giờ cần rất nhiều hàng hóa. Việc chúng mình đang làm ở đây cũng là để góp phần nào tháo gỡ những khó khăn chồng chất đang gặp phải.
          Lạng ngồi uống với Bùi Khoái mấy lon bia rồi lái xe ra về. Thực ra, Bùi Khoái từ chối lời mời của Lạng còn bởi vì Khoái vẫn  còn đầy mặc cảm thua kém. Với một người tự tin như Bùi Khoái, cái mặc cảm thua kém này chỉ thoáng qua mỗi khi anh ta gặp những người vốn như mình mà nay lại là nghiên cứu sinh, thực tập sinh. Mặc cảm này trở nên nặng nề hơn khi tiếp xúc với Lạng, Bùi Khoái luôn thấy mình dưới cơ anh này, cả về tiền, cả về địa vị. Người ta là cán bộ nhà nước, có hộ chiếu đỏ, mình chỉ là anh hợp tác lao động, hộ chiếu xanh còn không được cầm, đi ra ngoài đường chỉ có tờ giấy thông hành của Tiệp cấp, có thể bị tóm bất kể lúc nào. Ngoài nỗi mặc cảm đó còn có một điều nữa khiến Bùi Khoái dễ dàng chối bỏ lời mời của Lạng, đó là Bùi Khoái vẫn có cửa làm ăn đang tốt, việc buôn đô la với người Triều Tiên mà anh ta vừa bắt được mối  tiến triển khá thuận lợi. Bùi Khoái vẫn giữ kín mối này cho riêng mình. Làm với người Triều Tiên, Bùi Khoái không sợ bị lừa, hơn nữa, họ cũng mua được ở tu-dếch các loại rượu và thuốc lá như Lạng. Mấy bạn hàng Triều Tiên còn đưa cho Bùi Khoái một mặt hàng mới là băng ca-xét, thế tức là anh đã chuyển sang hàng điện tử, phần lợi nhuận thu được thật đáng kể. Về đô la, có bao nhiêu bán cho người Việt đều hết sạch, bán chạy thế nên Bùi Khoái rất ham, thường lấy vào  từ 30 nghìn, 40 nghìn đô, có lúc  đến 120 nghìn đô. Giá lúc lấy vào cứ khoảng 30 cu-run ăn một đô, khéo mặc cả có khi chỉ 28 cu-run, khi bán ra được 32, 33 cu-run, như thế là cứ một đồng đô la ăn lãi khoảng 2 đến 3 cu-run. Có thể Lạng chưa biết Bùi Khoái còn là một ông chủ đô la. Bùi Khoái thích chí mỉm cười nhớ đến câu nhận xét của Lạng “Thế mà nghe đồn anh ghê gớm lắm, hóa ra là hão” !
          Một buổi chiều, cấp dưỡng Thực gọi điện cho Bùi Khoái rủ cùng đi nghe thày Thích Thiện Chân giảng  pháp về ngày rằm tháng Bảy xá tội vong nhân. Lúc này là tháng 8 ở Pra-ha, tính sang âm lịch đúng rằm tháng 7 ở nhà. Thực lái chiếc xe Von-ga màu đen đã cũ nhưng đeo biển ngoại giao đến đón Bùi Khoái. Đang vào thu, cảnh vật Pra-ha xao xuyến đến nao lòng. Bầu trời lên cao và trong xanh hơn, ngói trên mái những tòa nhà cổ trong phố như đỏ rực dưới nắng thu vàng, những hàng cây ngô đồng đã bắt đầu rụng lá, những chiếc lá xậm đỏ rơi lả tả bay theo làn gió nhẹ se lạnh, những con chim hải âu vỗ đôi cánh trắng bay ngang qua sông VLta-va, trên những chiếc ca nô màu trắng và dòng nước xanh biếc. Bùi Khoái không phải lái xe nên thỏa sức ngắm cảnh, chỉ đi một lát đã đến phố Li-bút-xka, hóa ra nơi giảng pháp cũng gần chỗ ở của Bùi Khoái.
          Thày Thích Thiện Chân là Đại đức của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, từ Cần Thơ sang đã lâu, lăn lộn trong cộng đồng người Việt để vận động xây chùa. Người thấp lùn nhưng mập chắc, nước da đen hồng, chân tay lại có cơ bắp, thày Thích Thiện Chân trông giống một nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long hơn một nhà sư. Bù cho cái khiếm khuyết về hình dáng ấy, thày Chân là người có tài ăn nói, thuyết pháp có duyên nên đã nhanh chóng lấy được lòng  nhiều người Việt ở Tiệp. Một số người quan hệ với thày Chân như kiểu phật tử ruột, trong đó có Thực. Người ta đồn, lại là lời đồn, rằng Thực thường xuyên muốn đến cửa Phật xin xá tội và cúng dường, anh ta đã bỏ ra khá nhiều tiền với thiện ý muốn xây dựng một cái am làm nơi cho mọi người hương khói lễ Phật. Người ta đồn rằng, như thế là vì Thực bị dày vò dữ dội về cái vụ đứa con bị bắt cóc rồi biến mất.
          Hôm ấy có hơn 30 người ngồi nghe thày Chân trong một gian phòng rộng lợp tôn, vốn là nhà kho của một phật tử. Thày Thiện Chân mặc áo cà sa vàng, ngồi ở thế kiết già trước một cái bàn cũng trải khăn vàng, bên trên để một cái chuông đồng nhỏ. Thày nói những lời giản dị và nhẹ nhàng, tuy khán phòng rất rộng và trống trải mà giọng thầy vẫn âm vang lôi cuốn người nghe. Thày gõ lên ba tiếng chuông rồi nói :
          - Hôm này nhằm đúng vào ngày rằm tháng 7, các phật tử có ai biết ngày này là thế nào không ?
          Dưới đám người ngồi rộn lên tiếng “có ạ”.
          - Là thế nào ?
          - Là ngày xá tội vong nhân.
          Thày Thiện Chân thong thả nói :
          - Là ngày Vu lan báo hiếu. Các phật tử có muốn thày giảng về ngày lễ này không ?
          Mọi người đồng thanh hô lên “có ạ”. Thày Thiện Chân lại thỉnh lên 3 tiếng chuông rồi nói tiếp :
          - Nhân buổi giảng kinh hôm nay thày muốn nói cho các phật tử nghe về ngày Vu lan là ngày lễ lớn trong tâm thức mọi người. Chúng ta ngồi đây đều là những người thờ mẹ kính cha, vì vậy chúng ta nên biết về câu chuyện Mục Kiền Liên.
          Thày Thích Thiện Chân say sưa nói về sự thành tâm chú nguyện của mọi người có thể cứu được cha mẹ, tổ tiên thoát khỏi cảnh tội đồ, cầu nguyện cho chúng sinh được siêu thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Thày còn nói về Phật thoại Mục Kiền Liên cứu mẹ, về ý nghĩa những bông hồng cài áo, những ai có niềm hạnh phúc to lớn còn bậc sinh thành ra mình thì cài lên áo bông hồng màu đỏ, màu trắng để cài cho những người đã mất mẹ. Lời giảng lên xuống, thỉnh thoảng nhấn một tiếng chuông vào mùi hương thoang thoảng khiến cho ai nấy đều như bị mê hoặc, như bước tới một cõi tâm linh thật sự linh nghiệm
           Bùi Khoái ngồi xếp bằng bên cạnh Thực, hết sức chăm chú nghe. Khi còn trong nước cũng có một đôi lần anh cùng vợ lên chùa Quán Sứ vào ngày Tết nhưng chỉ là để thắp hương vãn cảnh, cũng thấy lòng thảnh thơi, tâm an tịnh ít nhiều. Anh nhớ lại chùa Quán Sứ vào những ngày Tết, vàng mã hương khói ngút trời, phật tử thập phương ra vào tấp nập đông đúc, còn đây là lần đầu  ngồi nghe chăm chú thày Chân nói về ý nghĩa ngày Vu Lan báo hiếu, càng nghe càng không thấy được thanh thản, ngược lại lòng quặn nhớ về người cha già đang ở quê nhà. Lần cuối cùng Bùi Khoái nhận được tin của bố cách đây đã lâu, từ bấy đến nay bẵng đi cũng đã gần một năm. Nhớ bố, Bùi Khoái thở dài thườn thượt, thầm nghĩ thời gian đi thật nhanh. Bùi Khoái lom khom đến gần thày Chân, nói :
          - Thưa thày, nhân ngày rằm báo hiếu, thày làm lễ thì tôi xin đóng góp chút ít  có được không ?
          Thày Chân chắp tay nhìn anh nói :
          - Mô Phật, xin thí chủ cứ tùy tâm.
          Thực đang ngồi dưới thấy vậy cũng chạy tới giới thiệu bằng những lời lẽ hết sức lễ phép khiến Bùi Khoái phải trố mắt ngạc nhiên.
          - Bạch thày, con xin giới thiệu với thày anh Bùi Khoái, là kỹ sữ, đội trưởng đoàn lao động Việt Nam trong nhà máy sản xuất phụ tùng ô tô. Anh Bùi Khoái đã nói với con là sẽ nhất tâm cúng dường trong dịp lễ trọng này.
          “Phịa nào, Bùi Khoái thầm nghĩ. Mình  có hứa hẹn gì với lão về việc cúng dường  đâu !”. Thày Chân chắp tay trước ngực :
          - Mô Phật, chào anh Bùi Khoái. Anh nghe tôi nói chuyện thế có được không, có dễ hiểu không ?
          - Thưa thày, thày nói rất hay, dễ tiếp thu lắm. Đây là lần đầu tiên tôi được nghe nói về ý nghĩa ngày lễ Vu Lan, được hiểu rằng có hai vị Phật ở ngay chính trong căn nhà mình là người cha và người mẹ. Tôi nghe thày nói chuyện mà rất cảm động và rất nhớ về bố tôi ở quê nhà.
          - Hai cụ năm nay chắc đã cao tuổi ?
          - Mẹ tôi mất rồi. Cha tôi năm nay 84 tuổi, là tuổi gần đất xa trời.
          Nhiều người đã xúm vào nghe câu chuyện giữa Bùi Khoái và thày Chân. Thày Chân tỏ thông cảm, nói :
          - Đúng là chúng ta cũng vì hoàn cảnh mà phải tha hương, không được ở bên cha mẹ mà lo cho các cụ miếng cơm manh áo, sớm viếng tối thăm được, quả thật đấy cũng là điều thiệt thòi. 
          Thực vẫn đứng im từ nãy, giờ mới thêm vào :
          - Bạch thày, nếu bà con ở đây xây dựng được một ngôi chùa làm nơi thờ cúng Phật thật nghiêm trang thì cũng có điều kiện để cầu nguyện cho cha mẹ, đỡ phải làm lễ ở nhà kho như thế này.
          - Phải rồi, đó là khát khao của bà con ta, bởi vì đó là chỗ dựa tâm linh, chỗ dựa tinh thần, là gốc gác, cội nguồn dân tộc mình. Việc này bà con phải bàn bạc với nhau nhiều để đi đến đồng tâm nhất trí, cùng nhau thí công thí của xây chùa. Bà con có đồng ý không ?
          Mọi người trong phòng đều hô vang đồng ý. Khi ra xe đi về bỗng có một người đàn ông luống tuổi đi tới kéo Thực lại, bả lả nói :
          - Anh Thực đi nghe thày Chân nói chuyện mà không sợ à ? Anh Bùi Khoái đây thì còn hiểu được chứ anh Thực đang là cán bộ cơ quan sao lại làm thế ?
          Thực ngạc nhiên nhìn người này, hỏi :
          - Làm sao lại sợ, sợ cái gì ?
          - Thày Chân là người của Giáo hội miền Nam cũ, có phải là người của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đâu ! Ông ấy từ Tây Đức sang vận động người mình xây chùa mà các anh cũng nghe à !
          Thực bực tức đẩy Bùi Khoái vào xe rồi đóng cửa đánh rầm. Khi đã đi ra ngoài đường, Thực lẩm bẩm :
          - Đến bây giờ đã có ông sư nào ở trong nước sang đâu. Phật nào chẳng là Phật, rõ thật là !
          Bùi Khoái hỏi :
          - Lão ấy là ai thế ?
          Thực còn chưa hết bực tức :
          - Nghe nói thằng cha này trước đây là cán bộ mình ở bên Hung, đào nhiệm chạy sang đây. Tức bỏ mẹ, nó khiêu khích mình đấy mà !

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét