Ngày nay, các bác sỹ thường khuyên chúng ta phải kiểm tra
sức khỏe định kỳ nếu không muốn bị đột tử (vì tim mạch) hay mắc các bệnh nan y (như ung thư). Trong “thế giới
phẳng”, Tom Friedman cũng khuyên các doanh nghiệp phải kiểm tra sức khỏe thường xuyên, nếu muốn tồn tại và phát
triển. Không biết giới trí thức Việt có kiểm tra sức khỏe và khám bệnh thường
xuyên không, và có thừa nhận bệnh tật của mình không?
Có lẽ việc này cần hơn là “định nghĩa lại trí thức”. Tại sao phải định nghĩa lại? Chẳng lẽ lâu nay chúng
ta không biết trí thức là gì, là ai, và làm gì. Đã qua rồi cái thời ông Mao
điên rồ và xảo quyệt nói bậy: “trí thức không giá trị bằng cục phân”, hay cái thời mấy ông Việt Minh ngây
ngô và cuồng tín, bắt chước ông Mao: “Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Họ không hiểu vùi dập trí
thức là đồng nghĩa với tự sát quốc gia.
Tuy đã qua rồi, nhưng hệ quả của nó vẫn còn, bởi căn nguyên là cực đoan và cuồng tín chưa chết, vẫn còn lẩn khuất trong chính chúng ta. Nếu chịu khó
quan sát, ta có thể nhận diện một số căn bệnh mãn tính điển hình của giới trí thức và văn nghệ si Việt. Họ là thành phần ưu tú của quốc gia, làm
đầu tàu thúc đẩy tiến bộ xã hội, nên cần quan tâm và khám bệnh, cả nghĩa bóng lẫn
nghĩa đen (mấy ông này uống và hút dữ lắm!).
Những nhận xét dưới đây có thể đúng, có thể sai, có thể bổ
xung, có thể tranh luận, nhưng là cần thiết. Đừng vội phủ định hay khẳng định
ngay.
Hay định kiến và chia
rẽ
Người ta hay nói
(nửa đùa nửa thật) rằng một
người Việt thì không thua kém một người nước khác, nhưng ba người Việt thì chắc thua kém một người nước khác. Bởi vì ba người Việt
thường không hợp sức mà còn chia
rẽ, tự phân hóa và vô hiệu hóa nhau. Không hiểu vì sao tính cá thể của người Việt rất cao,
nhưng tính cộng đồng rất
thấp. Đây là một nghịch lý mang bản sắc Việt Nam (không giống người Trung Hoa).
Cũng chưa thấy tài liệu nghiên cứu nào phân tích xem đây là do tính bản địa,
hay là do ảnh hưởng của văn hóa Pháp (xin lỗi mấy ông tây nhé!) Chỉ biết rằng người Việt có tiếng là hay định kiến và chia rẽ, hay cãi nhau không ai chịu ai. Càng trí thức,
càng hay cố chấp và chia rẽ khỏe. Chưa thể lý giải ngay được, nhưng có thể do
cực đoan và bảo thủ. Làm việc nhóm
rất khó, không phát huy được nội lực và không kết nối được năng lượng (synergy). Rất khó đồng
thuận để có tiếng nói chung. Có lẽ vì
biết như vậy nên cụ Hồ mới nhấn mạnh đoàn kết “như con ngươi của mắt mình”,
nghĩa là không đoàn kết thì mù luôn. Hy vọng Việt Nam không phải là một “thung lũng mù”!
Gần đây, đáng
mừng là đã xuất hiện một số hội đoàn độc lập theo hướng dân chủ hóa và cởi mở hơn, như xã hội công dân. Nhưng đáng buồn là các hội đoàn mới này cũng khó phát triển nhanh và mạnh được. Không phải chỉ vì số
lượng ít, nguồn lực thiếu thốn, bị chính quyền ngăn cản, mà bản thân nội bộ cố chấp và chia rẽ, rất khó đồng
thuận để có tiếng nói chung. Nghe
nói vừa mới hình thành đã cãi nhau
rồi. Chưa cần bên ngoài phá, bên trong đã tự phân hóa rồi. Có lẽ cũng vì vậy mà hòa hợp và hòa giải dân tọc mới khó thế. Khi nói đến dân trí, người ta thường hiểu theo
nghĩa cộng đồng chứ không phải từng
cá thể. Nếu cứ định kiến và chia
rẽ như vậy thì làm sao có thể nâng cao dân trí, làm sao có thể “thoát trung”.
Không chịu lắng nghe
Theo nguyên lý truyền thông, lắng nghe
quan trọng hơn cả nói, để thu lượm và sàng lọc thông tin cần thiết. Phải bình
tâm mới lắng nghe được người khác, để hiểu được cả những điều người khác không nói ra. Điều
này càng quan trọng trong thời đại bùng
nổ truyền thông kỹ thuật số. Muốn lắng nghe phải khiêm tốn, chân
thành, nhạy cảm. Người
ta nói xã hội càng “high-tech” thì con người càng phải “high-touch”. Ta thường làm ngược lại. Gần đây,
Việt Nam
được xếp vào nhóm nước vô cảm nhất thế giới (trong khi chưa “high-tech”). Đa số người Việt, nhất là giới trí thức, chỉ
thích nói cho người khác nghe, mà không chịu lắng nghe người khác nói. Một số người
còn hay “xoa đầu” và dạy bảo người khác (nhất là đối với lớp
trẻ). Họ
thường vô cảm, không hiểu được người
khác muốn gì, nghĩ gì. Thế hệ già không hiểu thế hệ trẻ. Bắc - Nam,
trong - ngoài, không hiểu được nhau. Thói quen không chịu lắng nghe có thể do thái độ ngạo mạn, coi thường người khác, luôn cho mình là đúng, ai không giống mình là sai.
Trong bộ máy công
quyền trước đây, người ta
quen độc quyền thông tin theo cấp bậc. Có một thời, chỉ có lãnh đạo mới được đọc “bản tin tham khảo” (lấy
từ các hãng thông tấn nước ngoài). Thời
ấy đã qua rồi, nhưng hệ quả của nó vẫn còn, vì hệ tư tưởng cũ chưa thay đổi. Một khi trong đầu đã chứa định kiến gì, thì người ta hay cố chấp, luôn phủ định hoặc khẳng định, mà không cần lắng nghe để tìm hiểu
sự thật. Không chịu lắng nghe và chia sẻ thông tin thường dẫn đến định kiến và
chia rẽ. Điều đáng nói là không phải
chỉ có những người cộng sản (cuồng tín) mà cả những người chống cộng (cực đoan) đều mắc phải căn bệnh mãn tính này. Trí thức mà định kiến và cực
đoan thì còn nguy hiểm hơn cả người khác.
Học giả nhiều hơn học thật
Chưa thấy ở đâu người ta coi trọng bằng cấp và học hàm học
vị một cách cực đoan như ở Việt Nam.
Giới thiệu ông trí thức nào mà thiếu cái tít “GSTS” là toi. Trong khi đó dân
chúng gọi GSTS là “gà sống thiến sót” (xin lỗi không phải tôi nói!). Vì vậy,
nhu cầu “học giả” và làm “bằng giả” trở thành một thị trường ngầm phát đạt, như
một khối u mãn tính, làm mấy đời bộ trưởng giáo dục đành chào thua. Điều đáng
nói là nó không chỉ phổ biến
trong nhà trường mà còn trong
giới công chức và trí thức.
Một quốc gia có trên 90 triệu dân (một nguồn tài nguyên quý mà chắc nhiều nước thèm
muốn) nhưng chất lượng nguồn nhân lực đang khủng hoảng đến mức báo động. Chúng
ta không lo giới trí thức Việt nhỏ
bé, nhưng rất lo chất lượng dân trí còn thấp, bị phân hóa và vô hiệu hóa
quá nhiều và quá lâu. Vì vậy, trí
thức thật thì ít, trí thức
giả thì nhiều. Giới trí thức Việt giống như một bức tranh “mosaic” nhiều màu sắc khó tả, rất đặc thù chẳng giống ai, mang đậm “bản
sắc” Việt Nam.
Nguồn gốc trí thức Việt đại khái có mấy thế hệ. Thế hệ những người “học tây” thời trước (cả
Bắc lẫn Nam)
là trí thức thật, nhưng vừa quá ít vừa
“quá date” (passé rồi), nếu chưa chết hoặc không nhanh chân
ra nước ngoài thì cũng đã bị vô hiệu hóa bởi thời thế hoặc
thời gian. Thế hệ “thiếu sinh
quân” (thời chống Pháp) được chọn đi học Trung Quốc/Liên Xô, đa số đã trở thành quan chức, một
số khác có tài đã trở thành trí thức thật, nhưng nay đã về hưu.
Thế hệ “học Đông Âu” (thời chiến tranh với Mỹ), tuy đông nhưng
bị phân hóa, đa số thực dụng buôn bán
kinh doanh giàu lên nhanh như
“tướng soái”, một số trở thành tư bản đỏ (đang lũng đoạn thị trường), nhưng vẫn giữ cái mũ phó tiến sĩ hoặc tiến sĩ dổm, một số khác có tài theo đuổi khoa học nghệ thuật, thường bị vô hiệu hóa, hoặc phải nhập quốc tịch
nước khác. Thế hệ đi học các nước “phương tây” (sau
chiến tranh) ngày càng đông và đa
dạng, đa số kinh doanh,
một số làm công chức, một số
khác làm cho nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài. Trí thức người Việt sống ở nước
ngoài là một nguồn nhân lực quan trọng, có nhiều nhân tài, có lòng ái quốc, có
thể đóng góp nhiều hơn cho đất nước và làm cầu nối với thế giới, nhưng chưa
được thực sự trân trọng.
Im lặng chùm chăn
Trong bối cảnh xã
hội chuyển đổi, đầy biến
động và rủi ro, giới trí thức thường là đội ngũ tiên phong dẫn dắt xã hội
đổi mới và phát triển. Nhưng đáng tiếc, giới trí thức văn nghệ sĩ Việt đã bị “thui chột” sau những kinh nghiệm đau buồn như “cải cách ruộng đất” và “nhân văn gia phẩm”,
nên đa số thường “chùm chăn”, không dám lên tiếng, vì sợ. Đây là cái sợ tiềm
tàng đã đi vào tiềm thức ít nhất hai thế hệ, nên muốn thoát khỏi nó phải
cam đảm để phản tỉnh. Đến nay, hệ thống
kiểm soát và kiểm duyệt (văn hóa tư tưởng) về cơ bản vẫn chưa thay đổi, với hồ sơ nhân quyền đang là vấn nạn trong quan hệ với Mỹ và phương Tây (giống như vấn đề MIA trước đây). Trong bối cảnh đó, giới trí thức văn nghệ sĩ “chùm chăn” là dễ hiểu. Quá trình phản tỉnh để
thoát khỏi nỗi sợ không đơn
giản, tùy thuộc vào hoàn cảnh mỗi người. Có
những người đến cuối đời mới
dám lên tiếng nói ra sự thật (như tác giả “Đèn Cù”.
Bên cạnh đa số im lặng chùm chăn (silent majority), có một
thiểu số lớn tiếng (vocal minority). Những người đã định cư ở nước ngoài thường
“dũng cảm” hơn và “lớn tiếng” hơn những người trong nước. Một số quá khích và nôn
nóng muốn thay đổi ngay. Một số khác trong lòng còn nặng hận thù và cố chấp,
chỉ thích chửi nhưng không đề ra được giải pháp. Ai cũng muốn thay đổi, nhưng
nếu không có giải pháp khả thi, thì thành viển vông. Vì vậy, cần tránh cả
khuynh hướng “trùm chăn” lẫn “quá khích”. Nếu bình tâm nhìn kỹ thì quá trình
dân chủ hóa trên thế giới tuy đa dạng và phức tạp, nhưng có quy luật, cần thời
gian. Qua kinh nghiệm nhiều nước đã chuyển đổi (trong 40 năm qua) người ta thấy
cách tốt nhất là đấu tranh ôn hòa, thông qua “Bất tuân Dân sự”. Phong trào dân
chủ gần đây tại Hong Kong là một ví dụ, khác
nhiều so với thời Thiên An Môn. Trong thời đại toàn cầu hóa và truyền thông kỹ
thuật số, muốn đấu tranh hiệu quả phải có dân trí cao, ứng dụng công nghệ cao, dùng “sức mạnh mềm”
đối phó với “sức mạnh cứng”, biết kết nối quốc tế để vận dụng sức mạnh toàn cầu
(global synergy).
Hội nhập quốc tế chậm
Trong thời đại
toàn cầu hóa, giới trí thức đáng lẽ phải hội nhập quốc tế nhanh hơn những nhóm người khác, để dẫn dắt họ trong quá
trình đổi mới và phát triển. Đáng
tiếc, giới trí thức Viêt hội nhập quốc tế hơi chậm so với các nước khác đang
chuyển đổi. Có nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, chính sách kiểm soát và kiểm duyệt
chặt chẽ với các quy định lạc hậu, không khuyến khích và tạo điều kiện cho giao
lưu, hội nhập quốc tế. Thứ hai, bị đóng cửa quá lâu nên giới trí thức bị “nội
địa hóa” quá nhiều, một số mang tâm lý bài ngoại, không quen hội nhập. Thứ ba, hàng
rào ngôn ngữ và văn hóa cũng làm cho việc giao lưu, hội nhập của trí thức với
thế giới bên ngoài khó khăn. Tuy nhiên, thế hệ trí thức trẻ học tại các nước
Phương Tây sau này ngày càng đông, riêng
học tại Mỹ đến nay là 16.500 người (sau 20 năm). Họ không bị hàng rào ngôn ngữ
và văn hóa cản trở, giao lưu và hội nhập dễ dàng. Đây là một nguồn nhân lực và
một lớp trí thức mới quan trọng, nhưng chưa được coi trọng đúng mức.
Trong thời đại toàn cầu hóa và truyền thông kỹ thuật số,
liên kết và giao lưu quốc tế vô cùng quan trọng, giúp cho những người trí thức mở
rộng tầm nhìn, không kỳ thị dân tộc, ngăn ngừa xu hướng dân tộc cực đoan và bạo
lực giữa các quốc gia. Theo kinh nghiệm phát triển của nhiều nước, chỉ khi nào giới
trí thức trưởng thành như một thế lực mạnh trong xã hội, và nhân tài được trọng
dụng như tài sản quốc gia, thì đất nước đó mới thực sự phát triển. Nhưng trước
hết, giới trí thức Việt cần chữa trị các bệnh mãn tính nói trên.
NQD. 7/7/2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét