Mồng hai tháng Chín – ngày lập quốc
tới gần lại gợi nhớ nhiều bài học vô giá về “nghề ngoại giao”, từng đóng vai
trò lớn lao thuở lập quốc khi cả lực lẫn thế của đất nước còn rất hạn hẹp song
lại phải đối phó với đủ loại thù trong giặc ngoài. Những gì mà nền ngoại giao
Việt Nam do Bác Hồ đích thân xây dựng đã làm thuở ban đầu thật sự là dòng suối
nguồn sản sinh ra biết bao ý tưởng, phương pháp và cả kỹ năng tạo thành nền tảng
của ngành ngoại giao nước nhà suốt gần 70 năm qua.
Bài
này không theo đuổi mục đích phân tích, tổng hợp một cách toàn diện những bài học
về ngoại giao của thời kỳ dựng nước mà chỉ ghi lại vài cảm nhận khi đọc lại những
tài liệu về thời đoạn lịch sử đầy ắp những sự kiện hào hùng vào những năm 1945
- 1946 mà thôi.
Trong
cái nghề ngoại giao, khâu đầu tiên mà nay ta gọi là công tác nghiên cứu, tức là thu thập, phân tích thông tin để nhận
diện đúng tình hình của nước mình và của cả thế giới, làm nền tảng cho việc hoạch
định đường lối, chính sách.
Thật ngạc nhiên,
hoạt động bí mật trong núi rừng Việt Bắc, chưa có bộ máy giúp việc, rất ít
thông tin song Bác Hồ và các vị tiền bối đã đưa ra những sự phân tích cực kỳ
sâu sắc, từ đó vạch ra quyết sách mang tầm vóc lịch sử thay đổi vận mệnh của cả
dân tộc. Xin lẩy ra một ví dụ về “hiện tượng kỳ lạ” này. Ngày 13 – 15/6/1945 Hội
nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân trào (Tuyên Quang) bàn về tổng khởi nghĩa. Hội
nghị nhận định: “Hiện nay về chính sách ngoại giao chúng ta phải nhận định rõ
hai điều này:
a)
Sự mâu thuẫn giữa hai phe đồng minh Anh – Pháp và Mỹ - Trung về vấn đề Đông
dương là một điều ta cần lợi dụng.
b)
Sự mâu thuẫn giữa Anh – Mỹ - Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh – Mỹ nhân nhượng
với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông dương.
Chính
sách của chúng ta là phải tránh các trường hợp một mình đối phó với nhiều lực
lượng đồng minh (Trung Quốc, Pháp, Mỹ) tràn vào nước ta và đặt Chính phủ của
Pháp De Gaulle hay một chính phủ bù nhìn khác trái với ý nguyện dân tộc.
Bởi
vậy cần tranh thủ sự đồng tình của Liên Xô và Mỹ chống lại mưu đồ của Pháp định
khôi phục lại địa vị cũ ở Đông dương và một số quân phiệt Trung Quốc định chiếm
nước ta…”
Sự
phân tích “nhìn cho rộng, suy cho kỹ” như Bác Hồ dặn trong tập thơ Ngục trung
nhật ký không những chỉ ra sự phân bổ lực lượng, những mâu thuẫn và chiều hướng
quan hệ giữa các nước lớn, xác định đối tượng và đồng minh mà còn vạch rõ
phương hướng hành động của ta. Và mọi chuyện diễn ra đúng như nhận định của Bác
Hồ và Đảng! Có thể tìm thấy những cách đề cập đầy tính khoa học tương tự trong
các văn kiện của Đảng liên quan tới quan hệ đối ngoại như Chỉ thị của Trung
ương Đảng ngày 25/11/1945 về kháng chiến kiến quốc, Chỉ thị của Thường vụ Trung
ương Đảng ngày 9/3/1946 về “hòa để tiến”…
Được
như vậy có lẽ nhờ ở trí tuệ minh triết, tầm nhìn rộng lớn, phương pháp khoa học,
bản lĩnh vững vàng, hành động táo bạo của Bác Hồ và các vị lãnh đạo tiền bối.
Ngày nay, với bộ máy đồ xộ, đủ ban bộ, viện trường với lượng thông tin dồi dào,
không lẽ gì chúng ta lại không cố vươn tới tầm cao như vậy.
Cũng
dựa trên những sự phân tích hết sức sâu sắc thời cuộc Bác Hồ và các vị lãnh đạo
tiền bối đã nắm bắt đúng thời cơ hành động.
Và lịch sử ngoại giao nước ta và thế giới cho thấy, dự báo và hành động trúng
thời cơ có ý nghĩa sống còn. Thật kỳ lạ, những dự báo thời đó không chỉ vạch ra
những chiều hướng diễn biến tình hình mà còn chỉ rõ cả thời điểm cụ thể xẩy ra
sự kiện ! Năm 1942, trong tập diễn ca “Lịch
sử nước ta” Bác phân tích:
“Bây
giờ Pháp mất nước rồi,
Không
đủ sức, không đủ người trị ta,
Giặc
Nhật Bản thì mới qua,
Cái
nền thống trị chưa ra mối mành,
Lại
cùng Tầu, Mỹ, Hà, Anh,
Khắp
nơi có cuộc chiến tranh rầy rà,
Ấy
là nhịp tốt cho ta,
Nổi
lên khôi phục nước nhà tổ tông”.
Thật
thú vị, bàn cờ quốc tế rối rắm đã được Bác miêu tả một cách giản đơn lạ thường,
người dân nào cũng hiểu và hành động được chứ không giống như nhiều “công trình
khoa học” dài dòng, rối rắm, khó hiểu, khó làm như ngày nay đôi khi ta gặp phải.
Thế
rồi, trong thư gửi đồng bào cả nước tháng 10 năm 1944, Bác dự báo: “ Phe xâm lược
gần đến ngày bị tiêu diệt. Các đồng minh quốc sắp tranh được thắng lợi cuối
cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa.
Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh” Và đúng 10 tháng sau Cách mạng tháng Tám
đã thành công trong cả nước!
Phải
chăng những sự dự báo thần kỳ như vậy bắt nguồn từ sự phân tích rất khoa học
các sự kiện, hiện tượng, chiều hướng trên thế giới, từ bề dầy kinh nghiệm hoạt
động cách mạng, từ khả năng nhìn xa trông rộng và cả tài trí thiên phú. Và khi
đã nắm bắt được thời cơ thì kiên quyết hành động vì trong đấu tranh cách mạng
cũng như trong hoạt động ngoại giao, sớm muộn một chút đều có thể bỏ lỡ cơ hội
“ngàn năm có một” không bao giờ có được. Mà thời cơ thì như Bác Hồ nói: “Lạc nước,
hai xe đành để phí. Gặp thời một tốt cũng thành công!”.
Ngày
nay, điều kiện thuận tiện hơn nhiều nhưng dường như công tác dự báo chưa thật tốt,
trong thực tế thậm chí có lúc còn ở thế bị động đối phó và thời cơ bị bỏ lỡ há
chẳng hổ thẹn với người xưa lắm sao?
Phân
tích đúng cục diện, nắm bắt được đúng thời cơ, Bác Hồ và các vị tiền bối đã vạch
ra và kiên định mục tiêu nhằm tới lợi ích tối cao của dân tộc: đất nước
phải được độc lập, giang sơn phải thống nhất. Mọi hoạt động ngoại giao lúc đó đều
xoay quanh mục tiêu bất biến này với những sách
lược thiên biến vạn hóa. Sự linh hoạt về sách lược thể hiện trong Hiệp định
sơ bộ 6/3/1946 đã trở thành mẫu mực cho nền ngoại giao Việt Nam. Do Pháp khăng
khăng không chịu ghi rõ trong Hiệp định chữ Việt Nam “độc lập”, Bác Hồ đã có
sáng kiến thay vào đó chữ “tự do” với nội hàm vẫn là độc lập; đó là nước ta vẫn
có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng ! Hơn thế nữa ta còn chấp
thuận tham gia khối Liên hiệp Pháp, cho Pháp đưa 15.000 quân ra Bắc cốt để ủi
200.000 quân Tưởng về nước nhằm tránh tình trạng cùng một lúc phải đối phó với
nhiều đối thủ, nhất là quân Tưởng đông về số lượng, có bọn tay sai Việt Quốc,
Việt Cách giúp sức lại ở sát nách nước ta. Bài học này đã được vận dụng trong
nhiều trường hợp khác như Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 đuổi quân Pháp ra khỏi bờ
cõi, giải phóng nửa nước, Hiệp định Pa-ri năm 1973 mở lối cho “Mỹ rút” để rồi
tiến lên đánh cho “ngụy nhào”…Bài học kiên định mục tiêu chiến lược, cơ động
linh hoạt về sách lược còn đưa tới một bài học khác về “đẩy lui từng bộ phận, tiến từng
bứơc đi tới thắng lợi hoàn toàn” vì ta luôn phải đối phó với những thế lực
lớn hơn nhiều lần về vật chất.
Một
điều nhìn qua có vẻ không lô-gic là trong bối cảnh cả “lực” lẫn “thế” của đất
nước còn rất hạn chế nhưng trong tất cả các văn kiện của Trung ương Đảng thời
đó đều nhấn mạnh thực lực có ý nghĩa quyết
định, và Bác Hồ thể hiện ý đó dưới dạng
đầy hình ảnh: “Thực lực mạnh ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà
ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”. Ở đây nẩy sinh một câu hỏi:
làm sao ta có được thực lực vượt trội? Nhưng nghĩ kỹ thì thấy, khái niệm “thực
lực” của ông cha ta thời ấy được hiểu và được xây đắp theo nghĩa rất rộng: nó
không chỉ bao hàm lực lượng vật chất mà còn kết tụ nhiều “sức mạnh mềm” như ngày
nay thường nói.
Đó
là tính chính nghĩa của sự nghiệp dân tộc ta theo đuổi, bắt gặp những xu hướng
lớn của thời đại nói chung và cao trào hòa bình, độc lập dân tộc nổi lên sau
Chiến tranh thế giới thứ Hai nói riêng,
Đó
là lòng yêu nước nồng nàn, chí kiên cường bất khuất của toàn dân tộc, điều mà Đảng
ta và Bác Hồ đã nắm bắt trúng, huy động được tạo nên cục diện : ý Đảng, lòng
dân là một.
Đó
là khối đại đoàn kết dân tộc, “không phân biệt đàn ông hay đàn bà, bất kỳ người
già người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc” như Bác Hồ kêu gọi;
ngay trong các hoạt động ngoại giao lớn cũng đều có sự tham gia đông đảo của những
nhân sỹ tri thức tiêu biểu của cả nước, thực sự là nguyên khí của quốc gia.
Đó
là sự đoàn kết với nhân dân Lào và Căm-pu-chia cũng như mối quan hệ đồng cảm, ủng
hộ lẫn nhau với các dân tộc châu Á, nhất là Đông Nam Á. Và một nét đặc biệt nữa
là ngay từ đầu Bác Hồ đã coi nhân dân các nước mà giới cầm quyền thù nghịch với
ta như Pháp, Trung Hoa Quốc dân Đảng là bạn của nhân dân ta.
Ngày
nay ta chủ trương hội nhập quốc tế,
làm bạn với các nước trên thế giới như một chủ trương lớn - một ý tưởng bắt nguồn từ năm 1946. Ngay từ những
ngày đó Bác Hồ đã từng tuyên bố “nước Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả mọi
nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”, và trong Lời kêu gọi gửi Liên
Hơp Quốc cuối năm 1946, Bác nói rõ: “Đối với các nước dân chủ,nước Việt Nam sẵn
sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực:
a)
Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ
thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ thuật của mình.
b)
Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc
buôn bán và quá cảnh quốc tế.
c)
Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự
lãnh đạo của Liên Hợp Quốc.
d)
Nước Việt Nam sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân, lục quân trong khuôn
khổ của Liên Hợp Quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những hiệp ước liên
quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải quân và không quân” !
Về
phương cách tiến hành hoạt động ngoại
giao thì một điều vô tiền khoáng hậu trong nền ngoại giao thế giới là Chủ tịch
Hồ Chí Minh, với tư cách người đứng đầu Nhà nước trực tiếp tiến hành các hoạt động
ngoại giao, dấn thân “vào hang cọp”, thăm nước Pháp – một nước mà chính quyền ở
đó đang theo đuổi chính sách thù địch với Việt Nam - tới hơn 4 tháng nhằm đấu
tranh đòi Pháp phải công nhận nền độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước
nhà, vận động sự đồng tình, ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân Pháp cũng như nhân
dân, chính giới, báo giới nhiều nước trên thế giới cùng bà con người Việt ở nước
ngoài, mở đầu cho hình thức “ngoại giao nhân dân” và công tác vận động Việt kiều
– những lĩnh vực hoạt động luôn được chú trọng sau này. Đây cũng là biểu hiện đầu
tiên của hình thức “ngoại giao cấp cao” và “ngoại giao nghị viện” (cùng đi với
Bác có Đoàn đại biểu Quốc hội đo đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu kết hợp dự cuộc
đàm phán ở Phông-ten-nơ-blô) mà ngày nay trở nên phổ biến. Đó là chưa kể biết
bao kỹ năng, nghệ thuật ngoại giao tinh tế, sắc bén thể hiện trong các văn bản,
các cuộc tiếp xúc, đàm phán, đấu lý…ta có thể học được qua hoạt động ngoại giao
vô cùng phong phú, hết sức khẩn trương của Bác Hồ và các vị tiền bối trong thời
gian đó.
Một
vài điều lẩy ra trên đây cho thấy rõ những hoạt động ngoại giao sau 2/9/1945 thực
sự đã đặt nền móng cho toàn bộ nền ngoại giao Việt Nam, tạo nên “trường phái
ngoại giao Hồ Chí Minh” huy hoàng, đồng hành và góp phần đắc lực cho sự nghiệp
dựng xây và bảo vệ Tổ quốc ta suốt bẩy thập niên qua.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét