Sự ra đời của thuyết “sức mạnh mềm”
Bước vào thập niên 90 của thế kỷ XX,
tình hình thế giới đã có những thay đột biến. Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới từ
đối đầu chuyển sang đối thoại hòa bình, hợp tác, cùng phát triển
trong một thế giới toàn cầu hóa,…do đó mọi ứng xử quốc tế cũng cần
có sự thay đổi cho phù hợp.
Tiếp theo là cuộc khủng hoảng tài
chính-tiền tệ châu Á 1997-98 làm cho kinh tế thế giới bước vào thời
kỳ trì trệ kéo dài, kéo theo sự suy sụp của các nền kinh tế “bong
bóng” ở một số nước, như Nhật Bản, Hàn Quốc,…buộc những nước này
cũng phải đi tìm con đường mới để phát triển.
Đây cũng là thời kỳ mà công nghệ
thông tin và văn hóa đại chúng
phát triển mạnh, mở ra một thị trường sản xuất và tiêu thụ văn hóa
rộng lớn trên phạm vi toàn thế giới (ca nhạc, điện ảnh, truyền
thông,…).
Trong thời đại đối thoại thay cho
đối đầu, vai trò của sức mạnh quân sự cũng đang thay đổi. Vũ
khí hạt nhân với sức mạnh hủy diệt vô cùng tàn bạo, có vai trò răn
đe không thể chối cãi, nhưng không phải lúc nào cũng có thể đem nó
ra sử dụng khi có chiến tranh, bởi người ta buộc phải tính đến cái
giá khủng khiếp mà nhân loại sẽ phải trả một khi chúng được cả hai
bên đem ra sử dụng.
Mỹ là một cường quốc hạt nhân nhưng
đã cam chịu thất bại trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Arhentina
không ngần ngại tấn công quần đảo Malvinas do Anh chiếm đóng, mặc dù
Anh có trong tay vũ khí hạt nhân.
Thất bại của chính quyền Bush trong
việc đem quân vào Afganistan, vào Irak hay trong cuộc chiến chống
chủ nghĩa khủng bố hiện nay,…cũng chứng tỏ điều này. Vấn đề của các
nước Hồi giáo Trung Đông là vấn đề tôn giáo, không thể giải quyết
bằng quân sự mà phải bằng kinh tế và văn hóa, nhất là khi chủ nghĩa
khủng bố đã trở thành một lực lượng xuyên quốc gia, đang bị chi phối
bởi một giáo lý cực đoan có hàng tỷ người tin theo.
Hơn nữa, việc sử dụng sức mạnh quân
sự ngày càng trở nên tốn kém hơn, vì vậy những nước tư bản
công nghiệp phát triển nay thường tập trung vào tăng cường cho sự
phồn vinh của đất nước, không còn ham muốn chinh phục nữa, không
muốn phải chịu nhiều thương vong. Trừ phi sự tồn vong của chính quốc
gia họ bị đe dọa, còn ở các nước dân chủ, việc huy động chiến binh
vào cuộc chiến phải được biện minh về
tính chính nghĩa-đạo đức của nó thì mới được dân chúng đồng
tình, ủng hộ. Các quốc gia ở lục địa châu Âu vốn đã bị tàn phá bởi
ba cuộc chiến tranh Pháp-Đức trong vòng một thế kỷ nên họ có khuynh
hướng đi tìm các giải pháp hòa bình để giải quyết các mâu thuẫn,
xung đột.
Hoa Kỳ là một cường quốc quân sự
nhưng nay cũng phải cân nhắc khi sử dụng vũ lực, vì nó có thể gây
nguy hại cho những mục tiêu kinh tế. Sự tồn tại của các “ốc đảo hòa
bình” (như các nước Bắc Âu, Thụy sĩ,…) cho thấy tầm quan trọng ngày
càng lớn của sức mạnh mềm.
Ở thời đại hiện nay, các lợi thế hợp
tác ngày càng trở nên quan trọng, ai cải thiện được khả năng hợp tác
với bạn bè và đồng minh, người đó sẽ đạt được ưu thế cạnh tranh so
với các đối thủ của mình.
Vì vậy, trước bối cảnh mới, các nước
đều đang có sự tìm tòi những phương thức ứng xử quốc tế mới, không
phải đối đầu mà là đối thọai, không phải sử dụng quyền lực cứng
(quân sự, kinh tế đơn thuần) mà phải tìm cách phát huy quyền lực
mềm, tức là phát huy sức mạnh của hệ giá trị quốc gia:
bao gồm các giá trị về
văn hóa, về thể chế xã hội, về chính sách quốc gia (đối nội và
đối ngoại),… để cạnh tranh với thế giới.
Đảng CS Việt Nam, trong các văn kiện
chính thức từ sau Đại hội XI tuy chưa thấy đề cập đến khái niệm “sức
mạnh mềm” nhưng đã nhấn mạnh nhiều đến vai trò của “ngoại giao văn
hóa” như là một biện pháp quan trọng để phát huy sức mạnh mềm của
quốc gia.
Vậy “sức
mạnh mềm” (hay quyền lực mềm) là gì?
Quyền lực, hiểu một cách đơn giản, là
quyền năng chỉ huy, sai khiến, gây ảnh hưởng lên người khác để đạt
được hiệu quả mình mong muốn. Có nhiều cách để tác động lên hành vi
của người khác: như đe dọa, cưỡng ép hay dụ dỗ, mua
chuộc, hoặc là kết hợp cả hai.
Theo GS Joseph Nye - giáo sư Đại học
Harvard của Hoa kỳ-người được coi là cha đẻ của thuyết “sức mạnh
mềm”, thì sức mạnh tổng hợp của một quốc gia gồm có “sức
mạnh cứng” (hard power, gồm sức mạnh quân sự, kinh tế, khoa học-
công nghệ,…) và “sức mạnh mềm”
(soft power, gồm sức mạnh của văn hóa, thể chế xã hội và các
chính sách đối nội, đối ngoại của quốc gia đó).
Sức mạnh cứng
chi phối, tác động, chinh phục các quốc gia khác bằng cây gậy
hay củ cà rốt. Sức mạnh mềm là khả năng lôi
cuốn, thu phục, cảm hóa người khác bằng sức hấp dẫn của các
giá trị về văn hóa, về thể chế , chính sách được thực thi
hiệu quả ở nước mình, thông qua đó mà nhận được cảm tình, sự nể phục
và hợp tác bền vững của các nước khác.
Ngoài ba yếu tố cơ bản nói trên (các
giá trị văn hóa quốc gia, thể chế quốc gia và chính sách quốc gia),
sức mạnh mềm còn có thể được tạo lập bởi một vài yếu tố khác nữa, ví
như sự thành công kỳ diệu về kinh tế của Trung Quốc; như hải quân Mỹ
tham gia cứu trợ nạn nhân sóng thần ở Ấn Độ Dương và động đất ở Nam
Á; hoặc danh vọng, ảnh hưởng của những danh nhân quốc gia có tài
năng, uy tín lớn…với nhân loại,… cũng có thể đem lại sức hấp dẫn cho
đất nước ấy.
Ở thời đại hiện nay, sức mạnh mềm
đang là nhân tố cơ bản để nâng cao sức cạnh tranh quốc gia cũng như
để mở rộng phạm vi ảnh hưởng của một nước trong khu vực và trên thế
giới; nếu chỉ dựa vào sức mạnh cứng về quân sự để thực hiện
đường lối đối ngoại, theo “chủ nghĩa đơn phương”, theo chính sách
“ngoại giao pháo hạm” như trước đây thì dù sức mạnh cứng có
ưu việt đến đâu, cũng sẽ không thể giải quyết được vấn đề mà có khi
còn để lại những hậu quả phức tạp, khó lường. Vì vậy, để đạt thắng
lợi trên bàn cờ liên quốc gia hiện nay, đòi hỏi các nước phải biết
phát huy sức mạnh mềm
của mình.
Mối quan hệ giữa sức mạnh cứng và sức mạnh mềm
là mối quan hệ giữa cái hữu hình và cái vô hình. Sức mạnh mềm
là thể hiện sự nối dài và mở rộng của sức mạnh cứng. Một quốc
gia đã yếu kém về kinh tế và quốc phòng sẽ khó có thể có sức mạnh
mềm đáng kể; ngược lại, sức mạnh mềm sẽ làm tăng sức mạnh cứng, ví
như tính thống nhất dân tộc, sự đồng thuận quốc gia, sự ổn định
chính trị của đất nước, sức hấp dẫn về văn hóa và thể chế xã hội,…là
những yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh mềm, nó sẽ góp phần
làm tăng sức mạnh cứng, nhờ đó mà “bất chiến tự nhiên thành”.
Ngược lại, nếu sức mạnh cứng khỏe,
nhưng sức mạnh mềm yếu kém, không có sức hấp dẫn về thể chế, chính
sách và văn hóa,…thì cũng không gây được cảm tình, không cạnh tranh
được với ai. Nói cách khác, sức mạnh cứng và sức mạnh mềm
phải dựa vào nhau, thúc đẩy lẫn nhau để tạo ra sức mạnh tổng hợp
quốc gia, nên cần phải tăng cường cả hai. Hiện nay, các nước lớn
trong khi tăng cường sức mạnh cứng vẫn đang rất chú trọng phát huy
sức mạnh mềm của mình, nhất là về văn hóa.
Singapore là một nước nhỏ,
dân ít, lại là quốc gia đa dân tộc, đa văn hóa (Hoa, Ấn, Mã Lai và
phương Tây), tài nguyên không có gì, đến nước ngọt cũng phải nhập
khẩu,…nghĩa là không có sức mạnh cứng gì đáng kể mà biết vươn lên từ
sức mạnh mềm để trở thành một quốc gia có vị trí nổi bật ở châu Á và
thế giới.
Người ta thường nói đến 7 trụ cột mềm
của Singapore: có một đội ngũ lãnh đạo xuất chúng (như Lý
Quang Diệu, Ngô Khánh Thụy,…); có một
nền quản lý nhà nước ưu việt với các yếu tố: trọng đãi nhân tài,
tính thực dụng, lòng chân thành, tính tối thượng của pháp luật,…;
tính đa văn hóa: Singapore là sự kết hợp 4 nền văn hóa lớn của
thế giới; người Singapore nói tiếng Anh tốt nhất châu Á, tạo
ra lợi thế cạnh tranh với các nước châu Á khác; có văn hóa ẩm
thực đa dạng; có môi trường xanh, sạch, đẹp, v.v..
Nhật Bản
cũng đất hẹp người đông, tài nguyên không có, thiên nhiên khắc
nghiệt (động đất, sóng thần), lại không nằm trên trục giao thông
đường biển như nước ta,…thế mà đã từng là một cường quốc quân sự,
hiện đang là cường quốc kinh tế, vươn lên từ sức mạnh mềm:
tinh thần võ sĩ đạo, ý chí mãnh liệt, tinh thần kỷ luật, tính cộng
đồng cao, lòng trung thành, ý thức tôn trọng truyền thống, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc (là một quốc gia hiện đại kiểu phương Tây mà
có bản sắc dân tộc đậm nét phương Đông: từ nhà ở, y phục đến
ẩm thực, trà đạo,…)
Để quảng bá sức mạnh mềm của mình,
Nhật Bản đã có rất nhiều nỗ lực:
-Viện trợ kinh tế ODA cho các
nước đang phát triển, như cho Việt Nam ta, mỗi lần hàng trăm tỷ Yên;
viện trợ cho Quỹ tiền tệ IMF để giúp các nước đang gặp khó khăn.
- Nhật Bản tham gia tích cực vào các
hoạt động giữ gìn hòa bình của LHQ, như ở Afganistan, ở Irak;
vào các chương trình phát triển của LHQ, như đầu tư giúp các
nước châu Phi về thay đổi khí hậu, đem tàu tuần dương hộ tống tàu
buôn các nước chống lại bọn hải tặc Somalie,…
-Thực hiện chiến lược ngoại giao
công chúng thông qua các hoạt động truyền thông, văn hóa đại
chúng, qua các sản phẩm công nghệ văn hóa mang nhãn hiệu Japanese.
-Phát huy quyền lực mềm văn hóa:
họ mở hàng trăm trung tâm dạy tiếng Nhật cho người nước ngoài, tài
trợ cho sinh viên các nước sang du học tại Nhật Bản, tăng số sinh
viên Nhật ra nước ngoài học, đưa sản phẩm văn hóa Nhật sang phương
Tây: như truyện tranh Đôremôn, búp bê Hello Kitty,..
-Thực hiện đường lối ngoại giao đa
cực, v.v..
Kết quả là Nhật Bản đã lột xác từ một
tên quân phiệt trong thế chiến 2 trở thành nhà từ thiện, nhà buôn,
nhà ngoại giao với hình ảnh đẹp đẽ, hấp dẫn, in dấu ấn sâu đậm trong
tâm trí người nước ngoài.
Hàn Quốc
vào những thập niên 50, 60 thế kỷ trước cũng là một nước nghèo như
ta, nay đã vươn lên như một cường quốc châu Á, thông qua xuất khẩu
văn hóa và các sản phẩm công nghiệp văn hóa, như:
-Điện ảnh Hollywood: họ tiếp
thu tinh hoa điện ảnh thế giới để sáng tạo ra một phong cách làm
phim riêng. Do nắm bắt được tâm lý giới trẻ trong nước đã chán ngán
dòng phim xã hội đen, phim chính luận khô khan,…Hàn Quốc tung ra
những bộ phim có nội dung nhẹ nhàng, lấy bối cảnh chính từ xã hội
hiện đại, giải quyết những mâu thuẫn gần gũi với cuộc sống đời
thường, xoay quanh chữ hiếu, tình yêu chung thủy và các giá trị gia
đình châu Á, song họ lại rất chú trọng đến ngoại hình của diễn viên,
cảnh quay đẹp, nhạc phim hay, có sức cạnh tranh với phim nước ngoài,
đã biến Liên hoan phim Pusan trở thành một dạng Liên hoan phim
Cannes của châu Á.
-Truyền thông: được coi là một
phương tiện quảng bá hình ảnh Hàn Quốc ra toàn cầu, trở thành một
ngành kinh tế truyền thông mũi nhọn. Hàn Quốc có rất nhiều hãng
truyền hình tư nhân, cạnh tranh quyết liệt với Đài truyền hình TƯ
KBS của Chính phủ. Các thông tin truyền tải trên các hãng này không
bao giờ lấy lại của nhau, nhưng nội dung đều nhằm mục tiêu quảng bá
ra thế giới hình ảnh văn hóa, đất nước và con người Hàn Quốc - vừa
truyền thống, vừa hiện đại .
-Ngành công nghiệp giải trí
rất phát triển, như âm nhạc, gam-show, talk-show,…với hình ảnh các
ca sĩ, diễn viên đẹp - nhờ công nghệ lăng xê - tạo ra các thần
tượng, góp phần Hàn hóa thanh thiếu niên nhiều nước, trong đó
có cả Trung Quốc và Việt Nam.
-Thời trang và mỹ phẩm của Hàn
Quốc đều có sức cạnh tranh mạnh mẽ, bỏ xa nhiều đối thủ, như Nhật
Bản, mang lại lợi nhuận lớn với các thương hiệu như De Bon, E 100,
Double Rich,…
-Du lịch: do ảnh hưởng của
phim ảnh Hàn Quốc, du khách đổ sang Hàn Quốc ngày càng nhiều, để
được thăm các cảnh đẹp trong phim, thăm các trường quay, các danh
thắng,…Trong năm 2011, họ thu hút được 8,8 triệu du khách nước
ngoài, nhất là từ Trung Quốc .
Điều đó cho thấy vai trò quan trọng
của văn hóa trong chiến lược “ngoại giao sức mạnh mềm” trên thế giới
hiện nay.
“Ngoại giao văn hóa”- một lợi thế của
sức mạnh mềm Việt Nam, cần được đẩy mạnh và phát huy.
Cần nói ngay: sức mạnh mềm
không phải là giải pháp cho tất cả mọi vấn đề. Nó cũng có những
hạn chế nhất định. Là khả năng đạt được điều mình mong muốn
thông qua sức hấp dẫn của các giá trị, chứ không phải bằng
mua chuộc hay ép buộc, nên nó phải trải qua một quá trình, phải
có thời gian. Hai nữa, chiến lược sức mạnh mềm chỉ được triển
khai hiệu quả khi bản thân quốc gia đó tạo ra được những
giá trị đích thực, nhất là về văn hóa, được nhiều người thừa
nhận, mến mộ và chia sẻ.
Việt Nam ta hiện nay, sức mạnh cứng chưa đủ mạnh, mà sức mạnh mềm
cũng đang yếu, khả năng tác động quốc tế chưa nhiều, sức hấp dẫn về
văn hóa cũng chưa đáng kể.
Tuy nhiên, cạnh tranh “sức mạnh mềm” không phải là sân chơi dành
riêng cho các “đại gia”. Các nước nhỏ hoàn toàn có thể tạo ra nguồn
lực mềm của mình để xác lập vị thế quốc tế (như Na-uy,
Singapore,…đang có). Văn hóa là một lợi thế của Việt Nam, chúng ta
hoàn toàn có thể tăng cường và phát huy sức mạnh mềm của mình, bắt
đầu từ văn hóa.
Cứng tạo ra lực, mềm tạo ra thế. Nếu khéo làm, ta có thể chuyển thế
thành lực. Lực ta hiện còn yếu (cả về kinh tế, quân sự, KH-CN), ta
không thể dùng lực để đạt mục tiêu, nên phải sớm tạo ra thế bằng sức
mạnh mềm của văn hóa.
Dưới đây xin thử nêu lên một vài kiến giải sơ bộ.
1. Tiềm năng sức mạnh mềm của văn hóa
Việt Nam dồi dào, nhưng hiện vẫn chưa được kế thừa và phát huy tốt.
Việt Nam ta có một nền văn hóa lâu
đời, được thừa hưởng của cha ông những giá trị văn hóa tinh thần vô
giá, có khả năng tạo ra sức mạnh mềm không thua kém quốc gia nào. Ví
như, khi Tổ quốc lâm nguy, vua quan nhà Trần đã biết cùng các bô lão
mở Hội nghị Diên Hồng, thống nhất ý chí “cả nước một lòng, toàn dân
đánh giặc”, nêu cao tư tưởng “lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm
nền”, “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”,
“dĩ đoản binh chế trường trận”. “mưu phạt, tâm công, bất chiến tự
khuất”,…Khi kẻ thù đã vẫy đuôi xin hàng, ta sẵn lòng mở đường hiếu
sinh, cấp cho họ năm trăm chiến thuyền, vài nghìn cỗ ngựa để họ về
nước, bởi ta chỉ cốt “dập tắt muôn đời chiến tranh, mở nền thái bình
muôn thuở”.
Trong thời bình thì lo “an dân, trị
quốc”, vì thế đã kiên quyết “trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược”, để
sao cho khắp “thôn cùng, xóm vắng không còn tiếng hờn giận, oán sầu”
như Nguyễn Trãi đã nói. Ở thời đại Hồ Chí Minh, đó là các tư tưởng
“dân là chủ”,“phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc”, “có dân là có tất
cả”, cho nên “việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm; việc gì
hại đến dân, ta phải hết sức tránh”, vì dân bất tín thì vô
lập… Đó là những tinh hoa muôn thưở của sức mạnh mềm, không thể
để bị mai một, muốn thu phục lòng dân hay bạn bè, chúng ta phải tìm
mọi cách kế thừa và phát huy nó lên, tạo ra sức mạnh mềm để bảo vệ
Tổ quốc và hội nhập, phát triển thành công.
- Trở lại thời kỳ đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước trong thế kỷ vừa qua, nhân dân ta
đã nêu một tấm gương sáng chói về tinh thần yêu nước, chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, tinh thần dũng cảm, trí tuệ sáng tạo,…trong
chiến tranh, nhờ đó chúng ta đã thu phục được lòng yêu mến và cảm
phục của nhân loại tiến bộ yêu hòa bình, công lý, dân chủ và nhân
đạo trên toàn thế giới.
Ở thời điểm đó, chúng ta được coi là
biểu tượng của lương tâm, vinh dự
của thời đại, một dân tộc nhỏ dám kiên cường đương đầu, chống lại
những đế quốc lớn, vì các mục tiêu cao cả: độc lập dân tộc, dân chủ,
nhân quyền - mà cao nhất là quyền được sống trong độc lập, tự do,
theo con đường lựa chọn của mình. Chính điều đó là sức mạnh mềm tạo
nên lực hấp dẫn của Việt Nam, vì thế mới có người mơ ước sau một đêm
ngủ dậy thành người Việt Nam; mới có những cuộc biểu tình rầm rộ
trên thế giới phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ; mới có phong
trào hiến máu cho Việt Nam , phong trào tình nguyện sang Việt Nam
chiến đấu,… Sự ủng hộ vật chất và tinh thần to lớn đó đã góp phần
làm nên chiến thắng vĩ đại của Việt Nam mùa xuân năm 1975.
Tiếc rằng ta đã không tranh thủ nắm
lấy cơ hội ấy để phát triển lên thành một quốc gia độc lập, thống
nhất, giàu mạnh, có vị thế quốc tế trong khu vực và thế giới. Trái
lại, ngay sau đó chúng ta đã mắc phải một số sai lầm trong chính
sách đối nội và đối ngoại, làm cho hình ảnh Việt Nam đang huy
hoàng, rực rỡ bỗng trở nên méo mó trong con mắt của loài người, đất
nước lâm vào thế bị bao vây, cô lập, suy thoái, tụt hậu hàng mấy
chục năm so với các nước xung quanh.
Lòng yêu nước, tinh thần xả thân vì
nước là một giá trị vô
cùng quý báu, nhưng “không phải để cất giấu trong rương, trong hòm”
mà phải có cơ chế, chính sách, biện pháp biến nó thành động lực,
khiến cho người dân sẵn sàng đem tài năng, sức lực, tiền của ra sản
xuất, kinh doanh, góp phần vào xây dựng và phát triển đất nước. Muốn
thế, Nhà nước phải là nhà nước của dân, phải tạo được niềm
tin trong dân, khi đó dân sẽ sẵn sàng sẻ nhà, sẻ cửa để góp phần
với nhà nước, như nhân dân ta đã từng đóng góp vào Tuần lễ Vàng
và Quỹ đảm phụ quốc phòng sinh thời Hồ Chí Minh năm 1946.
- Sức mạnh mềm của Việt Nam còn được
thể hiện ở tinh thần khoan dung
văn hóa. Con người Việt Nam không hề hẹp hòi, kỳ thị mà sẵn
sàng thâu hóa những giá trị khác nhau của nhân loại, làm phong phú
thêm cho văn hoá của mình (văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, Chămpa,…cũng
như văn hóa phương Tây sau này).
Ví như, về chữ viết, chúng ta
chưa có, hoặc có nhưng sớm bị mai một, chúng ta đã học chữ Hán, rồi
dựa vào nó mà chế tạo ra chữ Nôm; hay sau này sẵn sàng tiếp thu chữ
cái latinh. Về văn hóa tâm linh, ta đã có đạo thờ cúng tổ tiên,
nhưng vẫn tiếp thu Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo, Tin
Lành,...cũng như sau này tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm
cách mạng của các nước anh em,…Đó là sức mạnh mềm của Việt Nam :
khả năng dung hóa, thâu hóa cái hay, cái tốt, cái đúng, cái đẹp
của văn hóa nhân loại, để nâng cao và làm giàu cho văn hóa của mình.
Người Mỹ rất khâm phục và ca ngợi
tinh thần bao dung, nhân ái của người Việt Nam. Trong chiến
tranh, họ đã gây ra cho đất nước và nhân dân ta bao tội ác trầm
trọng (sự tàn phá, chết chóc, thương tật, trẻ mồ côi, di hại của
chất độc da cam,…). Nhưng chỉ vài năm sau khi chiến tranh kết thúc,
nhiều cựu binh Mỹ đã sang thăm Việt Nam , lúc đầu họ cũng sợ bị nhân
dân ta lên án, xua đuổi, nhưng ngược lại, họ đã được đón tiếp tử tế.
Chính các Tổng thống Mỹ Bill Clinton, G. W. Bush sang thăm Việt Nam
cũng ngạc nhiên trước lòng khoan dung, hiếu khách của người
Việt chúng ta, họ có được cảm giác thật sự an toàn, thoải mái khi đi
dạo trên đường phố Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh , thăm Văn Miếu, vào lễ
Nhà thờ Cửa Bắc, chơi Chợ Bến Thành, thưởng thức món phở nổi tiếng
của Việt Nam ngay trong chợ, không chút e ngại. Đó là một hiện tượng
khó diễn ra ở một quốc gia cựu thù nào khác của nước Mỹ.
- Sức mạnh mềm của Việt Nam còn thể
hiện ở truyền thống đoàn kết, cộng đồng, sẵn sàng gạt bỏ mọi
dị biệt và lợi ích riêng tư để tập trung cứu nước và dựng nước; là
truyền thống lá lành đùm lá rách, cưu mang lẫn nhau trong hoạn nạn
(thủy, hỏa, đạo, tặc). Lịch sử đã ghi lại không ít những trang viết
cảm động, sâu sắc về truyền thống cao đẹp này. Ai cũng biết: sự
thống nhất dân tộc, sự đồng thuận xã hội là nhân tố cơ bản tạo
nên sự ổn định chính trị của quốc gia, tạo nên sức mạnh mềm, có sức
hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Tiếc thay, chúng ta rộng rãi với
người ngoài, nhanh chóng xóa bỏ quá khứ, nhìn về tương lai, nhưng
nhiều khi lại hẹp hòi giữa những người cùng chung dòng máu Hồng Lạc.
Một dân tộc hơi nặng cảm tính. Chiến tranh kết thúc, giang sơn quy
về một mối đã 40 năm mà thiên kiến “bên này, bên kia” vẫn còn đó. So
với nước Đức cùng cảnh ngộ bị chia cắt thì giữa người Việt chúng ta
cho đến nay vẫn chưa thể nói đã có hòa hợp dân tộc thực sự ! Điều
này đang làm suy yếu sức mạnh mềm của đất nước - một cản trở lớn cho
hội nhập và phát triển.
- Việt Nam có vị trí địa lý thuận
lợi, với hơn 3.200 km bờ biển, lại nằm ở ngã tư đường giao thông
hàng hải từ bắc xuống nam, từ đông sang tây; tài nguyên thiên
nhiên không đến nỗi nghèo nàn; nhân dân ta vốn có truyền
thống lao động cần cù và sức mạnh vượt khó đáng ngạc nhiên. Với
dân số 90 triệu, phần đông là lao động trẻ, năng động, có chí
tiến thủ - một nguồn lao động đầy tiềm năng,…nhưng sao
đất nước vẫn không vượt lên được để trở thành một quốc gia phát
triển, trái lại, sau một số năm đổi mới thành công, nay lại đang rơi
vào trì trệ, suy thoái ?
Người Trung Quốc, hơn ba chục năm
trước đây từng nêu ra câu hỏi: vì sao 20 triệu người Hoa ở khắp thế
giới lại tạo ra được số của cải nhiều lần hơn 1 tỷ người Hoa ở lục
địa? Lời giải đã được làm sáng tỏ bằng cuộc cải cách, chuyển đổi
sang kinh tế thị trường mang đặc sắc Trung Quốc, theo tư duy thực
dụng: “Mèo trắng, mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột”.
Kết quả là sau vài chục năm phát triển ngoạn mục, Trung Quốc đã nổi
lên như là một thị trường, một công xưởng lớn nhất thế giới, có sức
mạnh kinh tế vượt xa Nhật Bản, chỉ còn thua nước Mỹ !
Vậy nguyên nhân giầu nghèo là ở đâu?
- do tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, văn hóa, thể chế kinh
tế-xã hội hay con người ? Nếu nghiên cứu kỹ hiện tượng thần kỳ của
Nhật Bản vào thập niên 60-70 thế kỷ trước hay sự vươn lên của các
con rồng châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore, ta
có thể tự tìm được câu trả lời.
Năm 2014 này, nhân dân ta đón xuân
với thông điệp đầu năm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng - một thông
điệp chứa đựng nhiều quan điểm có tính đột phá - trong đó nhấn mạnh
đến vấn đề cải cách thể chế: “tập trung nỗ lực xây dựng nhà nước
pháp quyền, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân, hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tái
cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới”. Thông điệp
đã đề cập đến một khái niệm mới:
chức năng kiến tạo phát triển của nhà nước. Nhà nước không làm
thay dân mà phải tập trung xây dựng khuôn khổ thể chế phù hợp và tạo
điều kiện cần thiết để mọi người phát huy năng lực và sức sáng
tạo vì lợi ích của chính mình… Thông điệp đã phản ánh đúng nguyện
vọng bấy lâu của người dân, nên được đa số nhân dân vui mừng đón
nhận.
- Người Việt Nam vốn được tiếng là
thông minh và hiếu học. Chỉ số IQ và EQ cùng những giải thưởng
giành được trong các kỳ thi quốc tế đã chứng minh điều này. Đó là
một lợi thế của chúng ta. Ngày nay, nhân loại đã đạt được những
thành tựu lớn lao về khoa học-công nghệ, nhất là công nghệ thông
tin. Nhiều quốc gia lân bang vào nửa cuối thế kỷ trước vốn có trình
độ phát triển không mấy hơn ta, thậm chí có mặt còn thua ta, nhưng
do biết tận dụng cơ hội thời đại mang đến, họ đã bứt lên trong cuộc
cạnh tranh, đem lại phồn vinh và hạnh phúc cho dân tộc mình.
Lịch sử mỗi nước tùy thuộc rất nhiều
vào sự lựa chọn định hướng của các nhà lãnh đạo nước đó. Ông Lý
Quang Diệu trong cuốn “Bí quyết hóa rồng” đã cắt nghĩa rõ bài
học thành công của Singapore. Từ khá sớm ông Lý từng phát biểu với
các nhà lãnh đạo Việt Nam: “Thắng cuộc đua trong giáo dục thì mới
thắng cuộc đua trong kinh tế”.
Đến nay, chúng ta mới thật thấm thía bài học này. Kinh tế của chúng
ta trì trệ, kém phát triển vì giáo dục của chúng ta quá lạc hậu, cũ
kỹ cả về nội dung lẫn phương pháp, không nâng cao được chất lượng
đào tạo con người, mà con người mới là nhân tố quyết định của
phát triển.
Giáo dục Việt Nam xưa vốn chịu ảnh
hưởng nặng nề của giáo dục Nho giáo:
hiếu cổ (sùng bái cái cũ, “xưa bày, nay làm”), chủ trương chỉ
“thuật nhi bất tác, vô vi vô cải”, chuộng từ chương, háo danh
hiệu, bằng cấp, coi nhẹ thực nghiệp, khoa-kỹ,…cho nên các nhà nho
xưa hầu như không có vai trò, tác dụng gì đối với sản xuất.
Khi đi vào xây dựng nền giáo dục mới,
chúng ta đã phê phán những tàn dư này, đề cao vai trò của thực tiễn,
xem thực tiễn là tiêu chuẩn cao nhất của chân lý. Tuy nhiên trong
thực tế nghiên cứu-giảng dạy, chúng ta vẫn chưa thoát khỏi căn bệnh
kinh viện, giáo điều, mà chưa xuất phát từ đòi hỏi của đời sống thực
tế. Vì vậy, trong nội dung và phương pháp giảng dạy, ta thường
chỉ chú trọng truyền thụ, áp đặt một chiều, không khuyến khích
tư duy độc lập, không cho phép nêu phản đề, tranh luận, phản
biện,…để tìm ra cái mới. Tư duy triết học đã sơ cứng thì không những
khoa học xã hội không tiến lên được, mà cả khoa học tự nhiên cũng
không thể phát triển.
Bản chất của giáo dục không phải chỉ
là lưu giữ, truyền bá tri thức cũ, rồi đóng khung lại, “vô vi vô
cải”, mà cái chính là phải nghiên cứu, tìm tòi, thử nghiệm, phát
minh,…để sản xuất ra tri thức mới (nhất là giáo dục ở bậc đại học),
biến tri thức khoa học thành công nghệ, tạo ra năng suất cao hơn,
sản phẩm nhiều hơn, chất lượng tốt hơn, thúc đẩy kinh tế phát triển,
tiến tới hình thành nền kinh tế tri thức. Đến lượt nó, sự phát triển
của khoa học-công nghệ lại thúc đẩy cuộc đua tranh sản xuất tri thức
mới lên một tầm cao hơn.
Khoa học ngày nay vừa kế thừa vừa phủ
định lẫn nhau để không ngừng tiến lên, cái hôm nay được coi là đúng,
hôm sau có thể không còn đúng nữa. Lý thuyết hố đen của A. Einstein
vừa được nhà vật lý thiên tài tật nguyền người Anh Stephen Hawking
chứng minh là không tồn tại, nghĩa là không có đường chân trời cho
các sự kiện. Mọi tinh tú, vật thể và con người tồn tại, tương tác
với nhau trong một vũ trụ bao la, không có giới hạn không gian và
thời gian.
Việt Nam ta hầu như hiện vẫn đang
đứng bên ngoài của sự đua tranh quyết liệt về phát triển tri thức
khoa học. Vì vậy, để tiến cùng thời đại, chúng ta phải bắt đầu lại
từ giáo dục, phải thay đổi triết lý giáo dục, trên nền tảng đó mà
xác định lại mục tiêu, cơ cấu lại nội dung, chương trình, sách giáo
khoa, đổi mới phương châm, phương pháp dạy và học, có chính sách đãi
ngộ xứng đáng đối với vai trò, vị trí của người thầy giáo,…chỉ có
như vậy mới nhanh chóng đưa giáo dục của ta thoát ra khỏi
khủng hoảng, tạo ra động lực mới, sức mạnh mới làm thay đổi vị thế
của đất nước.
Nêu ra một số điều như trên để muốn
nói rằng sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam tuy dồi dào, nhưng hiện
nay chủ yếu vẫn đang tồn tại ở thế tiềm năng, ta phải tìm
cách làm cho nó trở thành hiện hữu. Mong rằng các nhà hoạch định
chính sách sẽ có những phương án khơi dậy, nâng cao, phát huy những
giá trị đó song song với việc ra sức học hỏi, trau giồi những giá
trị văn hóa-tinh thần tiên tiến của thời đại, để Việt Nam có thể
sớm cất cánh trong một tương lai gần.
2. “Ngoại giao văn hóa” trước mắt có
thể làm gì để góp phần phát huy sức mạnh mềm của đất nước.
2.1. Đẩy mạnh quảng bá các giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới.
Sức mạnh mềm của một quốc gia được thể hiện trước hết ở sức thu
hút, hấp dẫn, tỏa ra từ các giá trị văn hóa của quốc gia đó, bao gồm
các giá trị vật chất (hay giá trị tự nhiên, như phong cảnh,
tài nguyên, môi trường…), giá trị tinh thần (hay giá trị nhân
văn, như văn hóa, đạo đức, tôn giáo…) và giá trị con người
(phẩm chất và năng lực của người dân, đặc biệt là vai trò của các vĩ
nhân, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa tiêu biểu của đất nước,…
). Những lợi thế này nếu biết phát huy tốt sẽ tạo nên thương hiệu
quốc gia, có sức mời gọi đối với thế giới. Ví như, nói đến Ai Cập
người ta nhắc tới Kim tự tháp; nói đến nước Pháp người ta nhắc đến
tháp Eiffel, bảo tàng Louvre; nói đến nước Anh người ta nhắc đến
Tháp chuông đồng hồ Big-beng, Công viên Hoàng gia…; nói đến nước Nga
người ta nhắc đến Điện Kremli với những tháp chuông dát vàng, những
đêm tháng sáu sáng hồng bên dòng sông Nêva, những cánh rừng bạch
dương và thảo nguyên mênh mông của nước Nga; nói đến Úc, người ta
nhớ ngay đến nhà hát vỏ sò Xitni, chuột túi kăngguru; nói đến nước
Nhật ta nhắc đến núi Phú sĩ, hoa anh đào và trà đạo Nhật Bản; nói
đến Trung Quốc là nhắc đến Vạn lý trường thành, Cố cung, Di hòa
viên, và những cảnh đẹp đã đi vào văn chương như: sương bến Phong
Kiều, trăng sông Xích Bích, tuyết rơi Tây Hồ,…
Về di sản thiên nhiên:Việt Nam đã có nhiều phong cảnh và
danh thắng được Unesco công nhận là di sản thiên nhiên hàng đầu của
nhân loại như Vịnh Hạ Long, Động Phong Nha-Kẻ Bàng, bãi đá cổ Sapa;
nước ta có nhiều bãi biển đẹp (như Ngũ Hành Sơn, NhaTrang), có du
lịch sinh thái sông rạch, miệt vườn Nam bộ độc đáo…
Về văn hóa, chúng ta được thừa hưởng của cha ông một nền
văn hóa đa dân tộc, phong phú về thể loại (cả dân gian lẫn bác học,
cả văn chương, hội họa, kiến trúc, lẫn ca múa nhạc) trong đó một số
đã được Unesco công nhận là di sản văn hóa vật thể và phi vật thể
của nhân loại (như kiến trúc cố đô Huế, Tháp Chàm, di tích thánh địa
Mỹ Sơn, nhã nhạc, cồng chiêng, rối nước, quan họ,…). Nhưng được công
nhận rồi không phải để cất vào kho, mà cần tiếp tục được nâng cao,
phát triển, đem ra quảng bá với thế giới, làm cho bạn bè hiểu biết
và tìm đến với nền văn hóa độc đáo của Việt Nam.
Văn hóa
ẩm thực Việt Nam vốn có sức hấp dẫn với du khách do khẩu vị
Việt Nam gắn liền với sản vật nông nghiệp nhiệt đới, giúp cho
các món ăn Việt Nam bổ dưỡng mà nhẹ nhàng, thanh lịch, có hương vị
và màu sắc riêng, khác với châu Âu mà cũng không giống với Trung
Quốc, như món phở, nem rán cua bể, bún thang, bánh cuốn, bánh xèo
Huế,…vốn từ lâu đã quen thuộc với du khách nước ngoài. Cây cỏ nhiệt
đới Việt Nam tiềm ẩn nhiều vị thuốc quý, như sâm Ngọc Linh, nấm lim
xanh và nhiều cây thuốc khác có thể nuôi trồng, tạo ra những vị
thuốc riêng mang thương hiệu Việt Nam, để du khách có thể mua về làm
quà tặng.
Sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, chủ yếu được thể hiện ở con
người Việt Nam
với truyền thống yêu nước, quật cường chống ngoại xâm, ở sự hài hòa
cá nhân-gia đình-Tổ quốc, ở sự thân thiện, cởi mở, có tinh thần bao
dung hòa hợp, không hẹp hòi, kỳ thị với những cái còn xa lạ đối với
mình,…
Những giá trị đó được kết tinh ở
những người con ưu tú của dân tộc qua các thời kỳ lịch sử như Trần
Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh , Võ Nguyên
Giáp,…cùng bao nhà văn hóa và nhân vật lịch sử lỗi lạc khác. Do cách
quảng bá còn có phần thiên lệch của ta, hiện còn nhiều tấm gương của
các vĩ nhân khác trong lịch sử Việt Nam vẫn chưa được giới thiệu
rộng rãi với thế giới.
Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành “Chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2020”, yêu cầu
các bộ, ngành, địa phương phải xây dựng các chương trình, kế
hoạch cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động ngoại giao
văn hóa của đơn vị mình. Theo tôi, đây không phải là vấn đề của các
bộ, các ngành và địa phương. Cái mà chúng ta đang thiếu hiện nay là
một chiến lược tổng thể mang tầm quốc gia
về quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới, nghĩa là hiện vẫn
chưa có một cơ quan, hay tổ chức nào được giao trách nhiệm đứng ra
tập hợp những nhà nghiên cứu, nhà hoạt động văn hóa, khoa học, nghệ
thuật,…của cả nước để xây dựng nên một chiến lược toàn diện, có tầm
ngắn, tầm dài trong cuộc đua tranh về sức mạnh mềm của văn hóa
ở thời kỳ hiện nay.
Ví như về
du lịch, hiện nay vẫn do từng địa phương đảm nhiệm, chủ yếu
như một ngành kinh tế, một nguồn thu cho ngân sách địa phương, chứ
chưa thực sự coi du lịch như một ngành văn hóa, có chức năng hàng
đầu là quảng bá những giá trị của đất nước, văn hóa và con người
Việt Nam ra thế giới; vì vậy nó vẫn đang diễn ra một cách manh mún,
sơ sài, nghèo nàn, thiếu một sự phối hợp, liên thông giữa các ngành
với nhau. Du lịch, bản chất nó là văn hóa, gắn liền với vẻ đẹp cảnh
quan, di tích lịch sử, với các lễ hội, festival ca múa nhạc mang màu
sắc địa phương, du lịch làng nghề với các sản phẩm văn hóa biểu
tượng cho mỗi vùng miền,…nên cần được liên kết thành các “tua”, với
sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều địa phương mới thu hút được du
khách đến và ở lại trong nhiều ngày.
Quan trọng hơn là cần chú trọng xây
dựng hình ảnh con người Việt Nam
hiện đại - với tư cách là “sứ giả” của văn hóa - để họ biết
nên có, cần có thái độ như thế nào khi tiếp xúc với du khách nước
ngoài (nụ cười thân thiện, lòng hiếu khách, sự giúp đỡ vô tư không
vụ lợi, rồi ngôn ngữ, y phục, cách ứng xử, giao tiếp,…phải tỏ ra là
người dân của một nước văn hóa). Còn nếu chỉ biết đeo bám, xin xỏ,
gian lận, lừa lọc, chặt chém,…thì họ chỉ làm cái việc đuổi khách
“một đi không trở lại” chứ nói gì đến phát huy sức mạnh mềm! Nói
cách khác, muốn hấp dẫn được người ta, trước tiên phải làm cho mình
trở nên hấp dẫn đã, nghĩa là phải nhanh chóng khắc phục được những
nhược điểm, khuyết tật tự thân về văn hóa, lối sống của mỗi người
dân chúng ta, bắt đầu từ trong gia đình, học đường rồi ra đến ngoài
xã hội.
2.2. Tăng cường sức mạnh mềm của “ngoại giao công chúng” để giúp họ cập
nhật những thông tin đúng đắn về Việt Nam.
Ngoại giao công chúng khác với ngoại
giao nhà nước ở chỗ nó không nhằm tác động đến các chính phủ; đối
tượng mà nó hướng đến là công chúng, là các tổ chức phi chính phủ,
tiếng nói của nó thể hiện sự đa dạng các quan điểm của cá nhân, như
là một sự bổ sung vào quan điểm của chính phủ.
-Ngoại giao công chúng có thể được
tiến hành bằng nhiều con đường, nhưng trước hết cần tận dụng
con đường truyền thông.
Trong cuộc xung đột Biển Đông, trước
đây cũng như hiện nay, chính nghĩa thuộc về Việt Nam, nhưng chính
nghĩa đó chưa được chúng ta diễn giải rõ ràng cho nhân dân Trung
Quốc hiểu, do sự tuyên truyền bóp méo của truyền thông phía họ, đại
bộ phận nhân dân Trung Quốc vẫn có cái nhìn sai lầm về Việt Nam, bởi
các nhà cầm quyền Trung Quốc luôn luôn tuyên truyền ngụy tạo rằng
các cuộc chiến 1974, 1979, 1988 là do phía Việt Nam gây ra, nên có
đến 85 % người dân Trung Quốc đồng tình phải tiến đánh Việt Nam.
Trên Biển Đông hiện nay, Trung Quốc
đang làm những việc ngang ngược, thô bạo, cư xử vô nhân đạo với ngư
dân Việt Nam, như các vụ Bình Minh 02, Viking II, Cỏ Rong,…rồi bằng
sức mạnh truyền thông áp đảo, họ đã đánh đồng kẻ gây hấn với người
bị gây hấn.
Ngược lại, các hành động nhân đạo của
Việt Nam đã cứu hộ ngư dân Trung Quốc mắc nạn do thời tiết, lại chỉ
được đưa tin trên báo chí Việt Nam, người dân Trung Quốc không hề
biết đến, do sức mạnh của truyền thông Việt Nam chưa được phát huy
tốt. Chúng ta hiện có hơn 700 ấn phẩm báo chí, gần trăm đài phát
thanh-truyền hình, trong đó có không ít được xuất bản và truyền hình
bằng tiếng Anh, tiếng Trung,…ta cần xúc tiến liên tục, bền bỉ các
chương trình truyền thông (về văn hóa Việt Nam, về thực trạng Biển
Đông, về chủ quyền biển đảo của Việt Nam trong lịch sử,…) hướng về
phía nhân dân Trung Quốc và các nước Asean, thông tin cho công chúng
nước họ biết, đòi hỏi chính phủ họ phải tôn trọng luật pháp quốc tế.
Đó chính là một sức mạnh mềm để cải thiện hình ảnh và tìm kiếm sự
ủng hộ của công chúng các nước trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền đất
nước và biển đảo của ta.
Cần nhớ lại rằng bức tường Berlin sụp
đổ không phải bằng bom đạn quân sự mà chủ yếu bằng sức mạnh của
thông tin-truyền thông. Trong chiến tranh lạnh, ngoài sức mạnh của
ngoại giao văn hóa như nghệ thuật, sách báo, phim ảnh,… Mỹ và các
nước phương Tây đã sử dụng sức mạnh của truyền thông, liên tục phát
đi các chương trình của Đài phát thanh Tự do và Đài phát thanh Châu
Âu Tự do, hướng vào công chúng các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu,
bào mòn dần lòng tin của họ vào tương lai của chủ nghĩa xã hội. Do
đó, người ta cũng gọi thông tin- truyền thông là một hình thức
“ngoại giao công chúng” (public diplomacy).
-Thông tin là sức mạnh. Nhưng ở thời
đại bùng nổ thông tin hiện nay, thông tin trở nên bội thực, trong
đống hỗn độn ấy, người ta không biết tin vào cái gì, cái nào là giả,
cái nào là thật? Cách đưa tin của thời chiến tranh lạnh đã mất chỗ
đứng trong lòng tin người nghe. Chân thật, chính xác, đáng tin
cậy phải trở thành tiêu chí quan trọng hàng đầu của sức mạnh mềm
truyền thông, bởi chính trị là địa hạt giành giật lòng tin, các
thông tin nếu quá thiên về tuyên truyền, thiếu sự khả tín quốc gia,
không thể biến thành sức mạnh mềm. Người nghe ngày nay thường không
quá tin vào các nguồn tin chính thức của nhà nước, nên họ đã tranh
thủ đi tìm thông tin từ nhiều con đường khác nhau.
Vì vậy, nội dung của “ngoại giao công
chúng” còn được thực hiện thông qua
hoạt động của các tổ chức phi chính phủ, các tập đoàn kinh tế,
các hội thảo khoa học, các khóa tập huấn, các chươg trình tài trợ
cho du học sinh, các cuộc trao đổi, giao lưu văn hóa - nghệ thuật,…
với sự tham gia của các nhà hoạt động xã hội, nghệ sĩ, nhà văn, nhà
báo có tên tuổi,…Trong các cuộc giao lưu, tiếp xúc với công chúng ở
các nước sở tại thường diễn ra các cuộc phỏng vấn, tọa đàm, đối
thoại hai chiều, trao đổi trong phạm vi hẹp, những thông tin công
chúng họ thu được tại đây sẽ có tính thuyết phục hơn, trở nên đáng
tin cậy hơn.
-Ngoại giao công chúng sẽ đạt hiệu
quả tốt nhất nếu nó được thuyết phục bằng hành động,
bởi hành động bao giờ cũng mạnh hơn mọi lời nói. Một thí dụ điển
hình là Na-uy, một nước chỉ có 5 triệu dân, không có ngôn ngữ quốc
tế, văn hóa xuyên quốc gia, không nằm ở trung tâm châu Âu, cũng
không phải là thành viên của EU,…nhưng lại là một quốc gia có vị
thế, có tiếng nói vượt ra ngoài kích thước và tài nguyên khiêm tốn
của mình, đó là vì họ đã có những hoạt động đóng góp tích cực vào
nền hòa bình trên thế giới: hòa giải cho các xung đột tại
Trung Đông, Sri Lanka, Columbia; đóng góp đáng kể vào các quỹ viện
trợ cho nhiều nước; là thường trực của các lực lượng giữ gìn hòa
bình trên thế giới,…Dĩ nhiên trong ứng xử quốc nội, Na-uy cũng có
vấn đề của họ, nhưng xét về tổng thể, Na-uy là một nước nhỏ nhưng đã
biết cách khai thác một thế mạnh trong hoạt động ngoại giao để
khuếch trương hình ảnh và vị thế quốc gia nhỏ bé của mình.
Việt Nam, tùy theo khả năng hiện nay,
có thể từng bước tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tế,
vào giải quyết các vấn đề như biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường
sinh thái, cho quân đội tham gia cứu trợ, cứu nạn trên Biển Đông hay
tham gia các lực lượng bảo vệ hòa bình của LHQ, v.v..Thông qua những
hoạt động đó, hình ảnh Việt Nam sẽ được cải thiện rất nhiều trong
con mắt của thế giới.
*
Việt Nam sẽ triển khai sức mạnh
“ngoại giao văn hóa” của mình như thế nào? Ở thế kỷ trước, chúng ta
đã một thời là trung tâm thu hút được sự yêu mến và kính trọng của
loài người tiến bộ vì đã đi tiên phong và giành được thắng lợi trong
cuộc đấu tranh cho độc lập tự do và phẩm giá con người - một chàng
David bé nhỏ đã quật ngã được gã khổng lồ Goliath - làm cho chính
đối thủ cũng phải nể phục. Tiếc thay, sức mạnh mềm ấy nay đã là
chuyện của quá khứ, ta không thể cứ mãi “ăn mày dĩ vãng”.
Để tạo ra sức mạnh mềm mới, có lẽ ta
cần tỉnh táo, sáng suốt định vị lại
mình là ai, đang ở vị thế nào trong thế
giới hiện đại, cần phải thay đổi những gì
để có thể tái thu hút được sự yêu mến và cảm phục của nhân loại
như một thời ta đã có ? Những câu hỏi ấy thật không dễ trả lời. Vậy
xin tạm ngừng tại đây để được nghe kiến giải của các bậc cao minh.
Hà Nội, tháng 2 - 2014
http://www.viet-studies.info/kinhte/SongThanh_SucManhMemVietNam.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét