Những năm gần
đây, yêu cầu xúc tiến ngoại giao văn hóa thường được nhấn mạnh. Điều đó
phù hợp với xu thế chung trên thế giới coi trọng “sức mạnh mềm” mà văn
hóa là một bộ phận quan trọng. Nhưng làm sao có thể thực hiện tốt chủ
trương ấy nếu những người trực tiếp hoạt động đối ngoại không chỉ bao
gồm cán bộ, nhân viên của ngành ngoại giao mà cả các ngành khác ra hoạt
động ở nước ngoài (dưới đây gọi chung là cán bộ ngoại giao - CBNG) không
có văn hóa ngoại giao?
Thế nào là văn hóa ngoại giao?
Nhưng thế nào là văn hóa ngoại giao
thì rất khó lý giải vì bản thân phạm trù “văn hóa” vốn đã rất rộng và
trừu tượng; riêng khái niệm văn hóa ngoại giao lâu nay chưa từng được đề
cập. Vì vậy bước đầu chỉ có thể xới xáo vấn đề, luận bàn đôi điều về
một số cách tiếp cận. Trước hết hãy thống nhất về khái niệm “văn hóa”
nói chung. Trên thế giới có tới trên 300 định nghĩa khác nhau. Trong
“cánh rừng định nghĩa” ấy, điều hợp lý là lấy định nghĩa của UNESCO làm
chuẩn, theo đó văn hóa “… chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật... cả
cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức
tin”. Từ định nghĩa trên có thể thấy có được
trình độ văn hóa cao thật là khó; khó hơn nhiều so với trình độ học vấn.
Rõ ràng, muốn trở thành “người có văn hóa”, kiến thức sách vở, trường
lớp chưa đủ mà phải hấp thụ cái hồn văn hóa từ khi lọt lòng mẹ cho đến
suốt cả cuộc đời. Tiếc rằng, nền giáo dục nước ta chưa cung cấp được
những kiến thức phong phú về văn hóa và cũng chưa chú tâm đào luyện
những con người thực sự có văn hóa. Hơn nữa, dưới tác động của những
biến động xã hội từ thời quan liêu mệnh lệnh, bao cấp tới thời kinh tế
thị trường và mở cửa, nhiều giá trị bị đảo lộn, nhiều bản sắc văn hóa
truyền thống bị xói mòn.
CBNG không thể thoát ly được thực tế
trên và do vậy rất khó đáp ứng những yêu cầu nêu ra trong định nghĩa của
UNESCO. Không nhiều CBNG có kiến thức sâu rộng về “cầm, kỳ, thi, họa”
vì vậy cũng không dễ gì giới thiệu với bạn bè quốc tế về văn hóa nước
mình. Đòi hỏi cao và khó hơn nữa là thấu hiểu và thể hiện được bản sắc
dân tộc liên quan tới “cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá
trị, truyền thống dân tộc” để có thể quảng bá những nét đẹp trong bản
sắc văn hóa của dân tộc mình cho thiên hạ.
Do phải tiếp xúc, giao lưu với bên
ngoài và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, CBNG còn cần phải thấu
hiểu cả văn hóa các dân tộc khác và nói rộng ra là văn hóa nhân loại.
Tiếc rằng, CBNG ta lâu nay thường chỉ chú tâm tìm hiểu các khía cạnh
chính trị, kinh tế; ít khi đi sâu tìm hiểu bản sắc văn hóa của các dân
tộc khác cho dù những bản sắc ấy thường để lại dấu ấn đậm nét cả trong
đời sống chính trị, kinh tế cũng như chính sách và cách hành xử đối
ngoại của các quốc gia.
Tuy loài người chia sẻ nhiều giá trị
văn hóa chung song văn hóa của mỗi dân tộc lại có những bản sắc riêng
nên nhiều khi nẩy sinh tình trạng “xung đột văn hóa”. Trong hoàn cảnh
đó, CBNG vừa không được đánh mất mình, vừa phải “nhập gia tùy tục” để
hạn chế sự va đập văn hóa, ảnh hưởng tiêu cực tới quan hệ hợp tác với
bạn bè.
Đâu là bản sắc văn hóa của Việt Nam?
Trở lại khái niệm văn hóa ngoại giao,
điều đầu tiên cần làm rõ là cái “bản sắc văn hóa” Việt Nam mà CBNG phải
thể hiện là gì? Tuy tồn tại hằng hà sa số công trình nghiên cứu về đề
tài này nhưng thật khó tìm được một câu trả lời thật rõ ràng, đồng nhất;
ngay đối với những bản sắc có sự đồng thuận cao thì cũng cần làm rõ nó
được dân ta thể hiện có khác gì so với các dân tộc khác không? bên cạnh
mặt mạnh để “khoe ra”, có mặt yếu là gì cần “đậy lại” không? Ví dụ ai ai
cũng thừa nhận rằng, một trong những bản sắc văn hóa của dân ta là tinh
thần tương thân, tương ái theo triết lý “nhiễu điều phủ lấy giá gương;
người trong một nước thì yêu nhau cùng”. Tiếc rằng bản sắc ấy thường bộc
lộ rất mạnh mẽ khi gặp phải địch họa, thiên tai, nhưng trong hoàn cảnh
bình thường, kể cả trong làm ăn, nó lại được thể hiện khá mờ nhạt, thậm
chí bị tâm lý “đèn nhà nào nhà ấy rạng”.
Nói vậy để thấy rằng, rất cần đi sâu
nghiên cứu để nhận dạng rõ nét và đầy đủ hơn những bản sắc văn hóa dân
tộc, cả mặt mạnh lẫn mặt yếu, để từ đó CBNG biết rõ cần phát huy những
nét tốt đẹp, tránh mắc phải những điều thất thố.
Trong khi chờ đợi những công trình như
vậy ta hãy đề cập vài khía cạnh mang tính “đời thường” liên quan tới
văn hóa ngoại giao. Một trong những đặc điểm nghề nghiệp của CBNG là
thường xuyên giao tiếp với bạn bè quốc tế: giao tiếp trong cuộc sống và
giao tiếp ngoại giao. Thật lòng mà nói, không ít cách sống của chúng ta
không ăn nhập được với cách sống ở nhiều nước, nhất là các nước phát
triển. Ví dụ thói quen “ăn nhanh, đi chậm, hay cười, nói to”, gây ồn ào ở
nơi công cộng, ít chú trọng vệ sinh, trật tự… đều có thể làm cho bạn bè
quốc tế hiểu lầm về bản sắc văn hóa dân tộc ta, thậm chí chê cười, xa
lánh.
Dân ta vốn được bàn dân thiên hạ đánh
giá là cởi mở, thân thiện. Đây là một thế mạnh cần được phát huy; nó
càng có tác dụng trong thời hội nhập với thế giới bên ngoài theo tinh
thần Việt Nam muốn làm bạn và đối tác tin cậy với các nước trên thế
giới. Tuy nhiên trong giao tiếp ngoại giao vẫn cần phải khắc phục một số
thói quen chưa phù hợp. Ví dụ ở đâu đó còn không ít biểu hiện rụt rè,
tự ti; tại nhiều cuộc tiếp tân ngoại giao có thể thấy hiện tượng người
Việt túm năm tụm ba với nhau mà không tận dụng những dịp đó mở rộng giao
lưu với bạn bè quốc tế. Tình trạng này có thể bắt nguồn từ tàn dư thời
bị bao vây cô lập, đóng cửa, từ hạn chế về ngoại ngữ và cả kiến thức đời
thường để có thể quảng giao với bạn bè quốc tế. Hay trong giao tiếp đối
ngoại không ít người không thạo việc đưa đẩy câu chuyện, ăn nói theo
những công thức cứng nhắc, không chuyển tải được thông điệp gì; đọc
những bài diễn văn khô khan, sáo rỗng, với văn phong không ăn nhập với
văn hóa của người nghe cho nên không để lại ấn tượng gì trong lòng bạn
bè.
Một khía cạnh khác là cả ngoại thất
lẫn nội thất trụ sở các cơ quan đại diện ngoại giao ta ở nước ngoài, vốn
được coi là bộ mặt đất nước, hoàn toàn không thể hiện được bản sắc kiến
trúc dân tộc. Điều này có thể hiểu được vì phần lớn các trụ sở cơ quan
đại diện ngoại giao ta được tiếp quản sau khi nước nhà thống nhất hoặc
đi thuê; tiếc rằng ngay những trụ sở mới xây cũng không mang dáng dấp gì
của kiến trúc Việt Nam cả. Cách trang trí, bầy biện nội thất, chí ít là
phòng tiếp khách, phòng chiêu đãi cũng thường không mang hơi hướng gì
của bản sắc văn hóa Việt Nam, thậm chí thiếu thẩm mỹ, thường chỉ phản
ánh thị hiếu của người đứng đầu cơ quan hay người phụ trách quản trị -
tài chính vốn thay đổi theo nhiệm kỳ.
Về văn hóa ẩm thực cũng còn nhiều
chuyện đáng bàn vì một trong những đặc điểm của sự bang giao quốc tế là
đãi đằng bạn bè để mở rộng giao lưu và giới thiệu văn hóa nước mình. Cơ
quan đại diện ngoại giao nhiều nước, ví dụ Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản…
thường đưa từ trong nước ra những đầu bếp nổi tiếng với chế độ đãi ngộ
cao để lo chuyện này; còn các cơ quan đại diện ngoại giao ta thường
không có người chuyên trách hoặc nếu có thì trình độ không vượt xa cấp
dưỡng bếp tập thể là mấy. Còn chủ, tức là các CBNG, cũng không thông
thạo gì về văn hóa ẩm thực nên cũng không giới thiệu được cho khách về
những đặc trưng của ẩm thực nước mình. Về văn hóa ẩm thực còn có chuyện
tránh đãi khách những “món độc”, quá nặng “quốc hồn, quốc túy” người
nước ngoài không quen; ngược lại ta lại phải thích nghi với những món
bạn đãi đằng cho dù không hợp khẩu vị.
Để khoe văn hóa nước mình có một “công
cụ hữu dụng” nữa là các sản phẩm văn hóa như tranh ảnh, các bộ phim,
các tiết mục biểu diễn nghệ thuật… Tiếc rằng, các bức tranh treo trong
cơ quan đại diện ngoại giao ta đều là “hàng chợ”; rất ít các bộ phim đưa
ra trình chiếu bên ngoài có sức cuốn hút người xem cả về nội dung lẫn
trình độ nghệ thuật và kỹ thuật; các buổi trình diễn nghệ thuật còn hiếm
hoi và không phải lúc nào cũng hấp dẫn…
Khắc phục bằng cách nào?
Như trên đã nói, do đề tài văn hóa
ngoại giao quá khó và quá mới nên chưa thể nói lên điều gì, vì vậy chỉ
xin đề xuất mấy kiến nghị:
Một là, ngành ngoại giao nên phối hợp
với các chuyên gia về văn hóa đi sâu nghiên cứu về chủ đề văn hóa ngoại
giao làm nền tảng tạo sự chuyển biến cơ bản về văn hóa ngoại giao;
Hai là, chú trọng khía cạnh văn hóa
trong đào tạo, bồi dường, tuyển chọn, sắp xếp đội ngũ cơ quan đại diện
ngoại giao; chỉ có như vậy họ mới có được văn hóa ngoại giao cần thiết
cho bản thân và trong việc hướng dẫn, lôi cuốn cộng đồng trong việc giữ
gìn và quảng bá văn hóa dân tộc.
Ba là, tranh thủ các kiến trúc sư cả
ngoại lẫn nội thất xây dựng các thiết kế mẫu và tư vấn trong việc xây
dựng, bài trí các cơ quan đại diện ngoại giao ta ở nước ngoài;
Bốn là, phối hợp với ngành văn hóa
từng bước nâng cao chất lượng các sản phẩm văn hóa đem ra bên ngoài;
trong cơ quan đại diện ngoại giao, chí ít là ở một vài trọng điểm, tìm
cách nâng cao chất lượng văn hóa ẩm thực./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét