Hôm ấy, máy
bay tôi đến New York chậm hỏn một tiếng. Làm xong thủ tục xuất cảnh thì đā một giờ sáng. Anh
và mấy anh em
khác đứng chờ tôi ở cổng ra. Anh bỏ điếu thuốc đang hút, chào tôi và nói:
"Thành phố này về khuya không an toàn lắm, và quan hệ với chủ nhà cũng khá
phức tạp nên chúng tôi phải đưa cả
một tiểu đội ra đón anh." Mười năm sau, khi tôi đến ở đấy, NY đā trở
thành một trong những thành phố
an toàn nhất thế giới.
Về đến trung
cư, tôi được xếp vào cùng buồng với anh, không biết
vì lý do tuổi tác (chúng tôi xấp xỉ tuổi nhau) hay vì lý do gì
khác. Trong những năm ấy, bao trùm vẫn là chế độ bao cấp, từ
ăn đến mặc. Mọi sinh hoạt đều phụ thuộc vào tiêu chuẩn. Riêng tôi
thì rất dốt cái món này: cho ăn gì thì ăn nấy, cho ở
đâu thì ở đấy, cho bao nhiêu tiền thi
tiêu bấy nhiêu.
Nói cho đúng, năm 1980, cán bộ ở NY được phát từ 1,50 cho đến 2đô la
/ ngày cũng tuỳ theo tiêu chuẩn, gọi là Daily Allowance Subsistence
(Xin miễn dịch vì từ Subsistence này chính xác quá) Cơm ngày ba bữa ở cơ quan,
cà fê, thuốc lá thì nhịn, hoặc trong trường hợp tôi, bà xã phụ
cấp. Cán bộ đi công tác nước ngoài phải đến Bộ tài
chính mượn giầy và côm lê, khi về phải trả lại.
Có lẽ
tôi thân anh vì chuyện này.
Đôi giầy bộ tài chính cho mượn làm bằng loại da gì tôi
không biết, nhưng
có đặc điểm là sang đến khí hậu khô thì co lại, sỏvào như là bị tra tấn. Hay
hơn nữa, giầy này biết nói và kêu như vẹt, két két qua mỗi bước. Vào phòng họp
xin đừng đến muộn vì cả
phòng sẽ ngẩng đầu nhìn và nghe đôi giầy
bất hủnày. Và nhất là
đừng bao giờ thăm viện bảo tàng hay phòng triển lãm. Trong khi thiên hạ im lặng ngắm
tranh thìtiếng kêu của
đôi giầy là cực hình đối với khổ chủ.
Biết thế, một
hôm đi họp khuya, tôi đề nghị anh cởi giầy đi vào phòng.Ít khi chúng tôi bước
vào phòng một cách đàng hoàng như vậy. Quan hệ giữa chúng tôi từ đóthay đổi. Hiểu nhau, và tìm mọi cách đỡ gánh nặng cho
nhau.
Ở chung phòng
với nhau đến gần ba tháng nhưng chẳng bao giờ tôi hỏi anh về cuộc sốnganh. Và anh cũng chẳng bao giờ nói. Có lần anh hỏi tôi
về một vấn đề chuyên môn, tôi đang loay hoay tìm câu trả lời thì anh nói, với cái giọng
từ tốn rất đặc biệt:“Thời gian trước, tôi đi Iính, ông đi
học. Bây giờ ông dạy lại tôi như thế hai đứa cùng có lợi".Chỉ bằng một
câu, anh đã tạo điều kiện cho chúng tôi thân nhau trong gần 40 năm qua. Cũng chỉ với một câu, anh thểhiện một cách
hồn nhiên sắc khí Việtnam. Ra trận khi cần thiết vàbị bắt buộc, nhưng tương lai phải là
xây dựng, làrnột cuộc sống
tạm gọi là bình thường. Sau này, khi làm việc trong các phái đoàn hoà bình
của Liên Hiệp Quốc, tôi mới
hoàn toàn thấm
cái phong cách đó: hoà bình là một cái gìrất giản dị. Nhưng con đường đi đến điều giản dị ấynhiều lúc
không phải con đường giản đơn nhất. Khi viết về sự hình thành của bản sắc Việtnam,
nhiều nhà sửhọc thường nói tới tinh thần và
truyền thống chống ngoại xâm, nhưng ít người đã phân tích vìsao tinh thần đó lại đẻ ra
lòng thiết tha hoà bình như ta biết.
Sau những ngày
ở New York và nhất là khi tôi vào làm việc
cho LHQ, thỉnh thoảng
tôi lại gặp anh, khi ở Hànội, khi ở Bangkok hay New York và lần cuối ở
Genève. Trong những năm ấy, mới biết thêm về
anh. Người Hà Thành gốc, sĩ quan trong nhữngnăm 60, được chọn đi B, bị
thương, giải ngũ và chuyển sang làm ngoại giao. Cũng như bao người khác đã cầm súng làm nhiệm vụ công dân, anh chẳng
bao giờ kể chuyện hoặc than vãn, hoặc khoe khoang về thời ấy. Đến nhà anh một
hôm, tôi thấy treo
một giấy chứng nhận Thương Binh. Anh cười vẫn nụ cười hiền hoà, vui, pha
một chút tinh nghịch và bảo: "Để bọn phường nó bớt hạch sách". Huy, huân
chương, anh dấu biệt, kể cả cái mà tôi thích nhất, huân chương bộ đội Trường Sơn. Một điểm khác
nói lên tính giản dị của anh là dù làm bất cứ việc gì, anh không bao giờ
quan trọng hóa mình. Mỗi lần
gọi điện thoại tôi thường nói: “A lô chào tham tán” thì ở đầu máy phía bên kia trái đất, anh cười và trả Iời : "Tham ăn tán phét".
Nhà anh bên cạnh
Hồ Tây. Trước khi có con đường quanh hồ, vào thăm anh phải đi qua đường làng, hai xe đạp chỉ đủchỗ tránh
nhau. Cũng chính vì thế mà anh em bè bạn kéo tới rất đông. Đủ mặt, văn nghệ
sï, cán bộ, dân đen, ngoại giao đủ cấp, người còn đi làm hay đã hạ cánh an
toàn. Họ mến anh, mến chị, vì anh, chị là những người mến khách và mến tất cả những gì
mang tính văn hóa, từ văn hóa chính thống đến văn hóa ẩm thực. Bún chả thì phải có anh, chị.
Hiệu phở ngon phải đi với anh, quán trà, cà fê, không cóanh, chẳng thành quán.Tôi thường nói đùa: "Thiếu anh, Hànội sẽ thiếđi
một cáì gì đó rất Hànội”. Trong những năm sốt đất, có nhiều
người khuyên anh bán nhà để thành tỷ phú thật,
chứ nay anh là người ngồi trên đống vàng nhưng thiếu tiền mặt. Anh thường cười
và nói:“Hai vợ chồng mình đã bỏvào cái nhà
này bao nhiêu công sức. Thôi để hưởng tuổi già vài năm rồi sẽ
tính. Mặt khác, dọn đi bây giờ thì chỗ đâu mà chung vui với anh em?”
Từ hơn hai mươi
năm nay, anh xoay sang nghề vẽ. Gọi là nghề trong cái nghĩa là tranh anh rất đẹp. Nhà tôi không là nhà nữa mà là phòng triển lãm
tranh của anh. Nhưng nói lànghề thì cũng không đúng nghĩa lắm, ngoại trừ ai đó
nói làm « nghề” từ thiện. Tranh của anh chủ yếu đểtặng bạn, nhất là những ai biết và mê Hànội. Tôi có một ước mơ là tổ chức tại
nơi tôi ở hay đã từng ở, một triển lãm tranh anh. Hànội, Genève đãtừng làm. Nhưng thiếu Paris, New York, Bangkok vàMexico thì còn
thiếu.
Cũng có những
lần ngồi UTQ với anh (uống trà quạu theo tiếng miền Nam), chúng tôi cũng bàn về thời chiến,về những quyển
sách nói về thời ấy. Anh nói: "Mình
cóđọc Nỗi Buồn Chiến
Tranh nhưng mình nghĩ là tác giả
quên không nói đến cái khí thế thời
ấy. Người ta thật sự xung phong cầm súng và những
người không được vào bộ đội, hiếm nhưng có, cũng mang mộtnỗi buồn ít ai kể đến. Tôi hỏi: "Vậy chủ
nghĩa lý lịchcấm công dân iàm nghĩa vụ à?"
Anh bảo, "Đương
nhiên không phải
tuyệt đối, nhưng đó là chính sách". Và anh kể: "Năm
mình chuẩn bị đi B, có buổi họp cả đại đội để kể khổ! Khi đến lượt
mình, mình nói: thú thật với các đồng chí, tôi chỉkhổ khi vào Iính. Ở nhà được
mẹ chiều, ăn uống đầy đủ, bây giờ đi bộ, vác nặng, thiếu ăn”...
Sau anh cười
và nói: "Chỉ vì câu nói đó mà mình bị chậm vào đảng mất mấy
năm. Ông cũng biết đấy, trong ta có những cha ba bị, cứng ngắc, chẳng hiểu cuộc
sống thật ra sao, lý luận chỉ là bình phong che cái dốt. Nhưngông yên tâm, họ không phá được
lâu đâu. Bằng chứng là mình còn trụ cho đến hôm nay."
Theo tôi đoán mò, nếu
không bị chậm mấy năm vì cái bản lĩnh dám nói, dám độc lập suy nghĩ
của anh, năm nay anh đạt đúng 50 tuổi đảng. Xin
thay rnặt cho cá nhân tôi, mừng anh.
NHĐ
Mêhicô. 3/4/15
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét