Phóng viên
Vietnamnet: Thưa ông Đại sứ! Ông đã giành cho Vietnamnet
nhiều bài trả lời phỏng vấn rất thú vị về Myanmar. Được biết ông từng có thời
gian dài sống và làm việc tại Trung Quốc và Đài Loan, từng tham gia phái đoàn
Việt Nam đàm phán với Trung Quốc, nhân dịp này Vietnam net muốn phỏng vấn ông một
số vấn đề xung quanh sự kiện từ ngày 1/5/2014 Trung Quốc phi pháp đưa dàn khoan
Hải Dương - 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, đe dọa
toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ nước ta.
Ông Chu Công
Phùng: Xin cám ơn sự tin cậy của
Vietnamnet. Ông cha ta đã dạy “Quốc gia lâm nguy, sĩ phu hữu trách”, với những
kiến thức nghiên cứu về Trung Quốc và quan hệ Việt – Trung, tôi sẵn sàng chia xẻ
với các bạn.
1/ Xin ông
lý giải vì sao TQ rầm rộ tiến hành chiến dịch xâm lấn, đặt gian khoan Hải Dương
- 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam vào thời điểm đầu
tháng 5/2014? Mục đích chính của chiến dịch này là gì?
Trả lời: Hơn một tháng
qua không ít nhà phân tích trong nước và ngoài nước đã phân tích từ nhiều góc độ
về nguyên nhân và mục đích Trung Quốc tiến hành chiến dịch hạ đặt trái phép
giàn khoan Hải Dương - 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thêm lục địa Việt
Nam. Kết hợp các yếu tố quốc tế, khu vực và nội bộ Trung Quốc, tôi cho rằng có
3 nguyên nhân chính khiến nhà cầm quyền Trung Quốc hạ quyết tâm và hung hăng thực
hiện chiến dịch xâm lược vào thời điểm hiện tại, đó là:
Thứ nhất: Công khai thách thức vai trò của Mỹ ở Châu
Á. Các bạn đều đã biết, trong cuộc
khủng hoảng ở Ucraina, quan hệ giữa Mỹ và EU với Nga trở lên căng thẳng, quan hệ
Mỹ - Trung cũng xuất hiện cũng xuất hiện nhiều trục trặc do Trung Quốc thực dụng
nghiêng về ủng hộ Nga để được Nga giành cho các hợp đồng khí đốt béo bở (trị
giá tới 400 tỉ USD).
Trước thực tế này, cuối tháng
4/2014 Tổng thống Mỹ Obama đã thực hiện chuyến thăm Châu Á gồm 4 nước Nhật Bản,
Hàn Quốc, Philipinnes và Malaysia với 2 mục đích rõ ràng: (1) phớt lờ Trung Quốc,
cùng các nước đối tác thúc đẩy hoàn tất Hiệp ước Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement - TPP); (2) cam
kết bảo vệ các đồng minh của Mỹ là Nhật Bản, Philippinnes trước các mối đe dọa
quân sự ngày càng tăng từ Trung Quốc.
Bị mất mặt trước việc Mỹ phớt
lờ vai trò của Trung Quốc ở Châu Á và công khai ủng hộ quân sự đối với các đồng
minh Nhật Bản và Philippines, chỉ chưa đầy một tuần sau chuyến công du Châu Á của
Tổng thống Obama, Trung Quốc đã phản ứng tiêu cực bằng cách thách thức vai trò
của Mỹ ở Biển Đông, ngang nhiên và hung hăng đưa dàn khoan khủng Hải Dương -
918 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam vừa nhằm gián tiếp
thách thức Mỹ, Nhật vừa dằn mặt các nước Châu Á đồng minh của Mỹ và những nước
có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng đủ tỉnh táo để
không đưa dàn khoan trên vào vùng biển Hoa Đông tranh chấp với Nhật Bản và vùng
biển Philippines vì như vậy Trung Quốc sẽ trực tiếp khiêu khích Mỹ - đối thủ
hơn hẳn Trung Quốc về mọi mặt.
Đáp lại thách thức này của
Trung Quốc, không chỉ các Nghị sĩ Quốc hội Mỹ đều gay gắt phê phán Trung Quốc
mà ngày 28/5/2014, khi phát biểu về chính sách đối ngoại trước các học viên tại
Học viện quân sự ở West Point, New York, Tổng thống Mỹ Barack Obama cảnh báo rằng,
quân đội nước này sẵn sàng đáp trả "sự gây hấn" của Trung Quốc với
các nước láng giềng trên Biển Đông và ủng hộ các quốc gia Đông Nam Á trong quá
trình đàm phán giải quyết tranh chấp với Bắc Kinh.
Thứ hai, Chia rẽ ASEAN trong vấn đề Biển Đông.
Trung Quốc đưa dàn khoan Hải Dương - 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa Việt Nam 10 ngày trước khi khai mạc Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 24 tổ chức
tại Myanmar. Chúng ta còn nhớ cách đây 2 năm, khi Campuchia là nước chủ nhà tổ
chức Hội nghị cấp cao ASEAN 22. Trung Quốc đã dùng khoản viện trợ kinh tế khổng
lồ (430 triệu USD) mua chuộc Campuchia khiến lần đầu tiên trong lịch sử Hội nghị
cấp cao ASEAN không ra được Thông cáo chung về vấn đề Biển Đông. (Sau đó
Campuchia bị hứng chịu rất nhiều búa rìu dư luận quốc tế và khu vực vì vụ việc
“ngậm miệng ăn tiền” này). Năm nay, Trung Quốc hy vọng Myanmar – nước không có
biên giới biển với Trung Quốc và đang tiếp nhận nhiều dự án đầu tư từ Trung Quốc
sẽ “nể mặt” Trung Quốc, cộng với sự ủng hộ ngầm của Campuchia (Trung Quốc cử Phó
Chủ tịch quân ủy trung ương Hứa Kỳ Lượng thăm Campuchia từ 8-13/5/2014) sẽ khiến
Hội nghị cấp cao ASEAN tại Myanmar tiếp tục bị chia rẽ, không ra được Tuyên bố
chung về vấn đề Biển Đông cho dù Việt Nam có tố cáo Trung Quốc tại Diễn đàn
này.
Nhưng lần này thủ đoạn “liên
hoành” của Trung Quốc để phá thế “hợp tung” của ASEAN đã phá sản, với sự chủ
trì đầy bản lĩnh của nước chủ nhà Myanmar, các nước ASEAN đã có tiếng nói chung
về vấn đề Biển Đông. Tuyên bố của Chủ tịch Hội nghị cấp cao ASEAN 24 về tình
hình Biển Đông và Tuyên bố chung của các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN đều đã
bày tỏ quan ngại sâu sắc về các vụ việc đang diễn ra trên Biển Đông, kêu gọi tất
cả các bên tham gia Tuyên bố về ứng xử ở Biển Đông (DOC) thực hiện đầy đủ và hiệu
quả tuyên bố này nhằm tạo môi trường tin cậy và xây dựng lòng tin; thực hiện
kiềm chế, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết các tranh chấp bằng
biện pháp hòa bình, tuân thủ các nguyên tắc đã được thừa nhận chung của luật
pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS), tiến tới
hình thành và ký kết Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Tuy không nêu đích
danh Trung Quốc, nhưng nội dung 2 Tuyên bố kể trên đều chĩa thẳng vào Bắc Kinh.
Thứ ba, Chuyển mâu thuẫn
nội bộ ra bên ngoài biên giới. Cuộc đấu tranh quyền lực trong giới lãnh đạo
chóp bu Trung Quốc đang diễn ra rất phức tạp. Để khẳng định vị trí độc tôn của
mình và giành quyền kiểm soát quân đội, Tập Cận Bình đã thẳng tay thanh toán
các đối thủ lớn từ Bí thư thành ủy Trùng Khánh Bạc Hy Lai đến Ủy viên thường vụ
Bộ Chính trị, Bộ trưởng Công an Chu Vĩnh Khang… Tuy nhiên, nội bộ Ban lãnh đạo
cấp cao Trung Quốc vẫn lục đục cộng với cuộc khủng hoảng về sắc tộc tôn giáo tại
Tân Cương, Tây Tạng... khiến nội bộ Đảng cộng sản Trung Quốc rối bời, xã hội
Trung Quốc bất ổn trước các vụ khủng bố đẫm máu.
Để tranh thủ sự ủng hộ của
quân đội, với thủ đoạn truyền thống “gắp lửa bỏ tay người”, ban lãnh đạo Tập Cận
Bình đã chuyển hướng dư luận trong nước ra bên ngoài bằng thủ đoạn đưa dàn
khoan Hải Dương - 981 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam,
huy động bộ máy tuyên truyền đồ sộ “tố cáo ngược” Việt Nam khiêu khích Trung Quốc
nhằm kích động tư tưởng Đại Hán trong dân chúng, qua đó xoa dịu các mâu thuẫn nội
bộ.
Chúng ta còn nhớ, trong cuộc
Cách mạng văn hóa nồi da nấu thịt, giết chết hàng chục triệu người ở Trung Quốc
trong thập kỷ 60 thế kỷ XX, Mao Trạch Đông cũng sử dụng thủ đoạn truyền thống
này để “đổ lửa” ra ngoài biên giới quốc gia như: hò hét “giải phóng Đài Loan”,
pháo kích các đảo Kim Môn, Mã Tổ của Đài Loan, gây chiến tranh biên giới với Ấn
Độ (1962) và gây chiến tranh biên giới với Liên Xô (1968)....
Thế nhưng, thủ đoạn của nhà cầm
quyền Trung Quốc “đổ lửa” sang hàng xóm vẫn không làm nguội bớt “lò lửa” bên
trong Trung Quốc. Vào đúng thời điềm dàn khoan Hải Dương - 918 nghênh ngang hạ
đặt phi pháp tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam thì ngày
22/5/2014 lại xảy ra vụ nổ bom khủng bố đẫm máu tại Tân Cương càng khiến cuộc
khủng hoảng sắc tộc và tôn giáo ở Trung Quốc thêm trầm trọng.
Mục đích của nhà cầm quyền
Trung Quốc đưa dàn khoan Hải Dương - 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa Việt Nam đã rõ như ban ngày. Đó là từng bước thực hiện cái gọi là “chủ quyền”
của Bắc Kinh trong vùng biên giới “lưỡi bò” liếm trọn gần hết Biển Đông. Nếu
như Trung Quốc thực hiện được tham vọng đó, họ sẽ kiểm soát hoàn toàn tuyến
giao thông trên Biển Đông và các dịch vụ khai thác tài nguyên ở Biển Đông. Xa
hơn nữa sẽ vươn tới Ấn Độ Dương, thực hiện “giấc mơ Trung Hoa” chi phối và khống
chế thế giới.
2/ Xin ông
cho biết thêm về tham vọng biển đảo của Trung Quốc đối với các nước láng giềng?
Trả lời: Tôi có thể khẳng định với các bạn rằng, là một nước lớn
với diện tích hơn 9 triệu km2, nhưng lòng tham của Trung Quốc về lãnh thổ đúng
là “vô đáy”. Lần này tôi chưa nói tới tham vọng của Trung Quốc về biên giới
trên đất liền với các nước láng giềng mà chỉ giới thiệu tham vọng của họ về
biên giới trên biển. Trung Quốc có rất nhiều tài liệu viết về việc này, tôi xin
trích dẫn một tài liệu chính thống của Trung Quốc.
Trong cuốn sách “Trầm tư trước Thái Bình Dương” của 2 học
giả quân sự Trung Quốc là Tào Bảo Kiện và Quách Phú Văn do Nhà xuất bản Đại học
quốc phòng Trung Quốc xuất bản năm 1989, đã ghi rõ Trung Quốc bị tất cả các nước
láng giềng có chung biên giới biển “cướp đoạt” hàng triệu km2 biển đảo của
Trung Quốc. Cụ thể là:
+ Ở Bắc Hoàng Hải: Trung Quốc cho rằng, Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên
cùng chung thềm lục địa. Khi chia ranh giới vùng biển Bắc Hoàng Hải, mặc dù hai
nước đã thỏa thuận nguyên tắc chia theo đường trung tuyến, nhưng Triều Tiên lại
đòi chia tới nửa đường phân tuyến để chiếm phần biển hơn Trung Quốc chí ít
3.000 km2 biển.
+ Ở Nam Hoàng Hải và Bắc Đông Hải: Trung Quốc và Hàn Quốc cùng có chung thềm lục địa.
Theo nguyên tắc kéo dài vị trí tự nhiên của sông Hoàng hà đổ ra biển, đáng lẽ
Trung Quốc được chia phần lãnh hải nhiều hơn, nhưng Hàn Quốc kiên quyết đòi
chia theo đường trung tuyến nên đã “chiếm của Trung Quốc” 180.000 km2 biển.
+ Ở Đông Hải: Trung Quốc và Nhật Bản không cùng thềm lục địa, nhưng Nhật Bản không
chịu, nói bừa là cùng thềm lục địa để chiếm của Trung Quốc dãy đảo Điếu Ngư
(Sen ka ku) và 210.000 km2 lãnh hải. Tháng 1/1974, Nhật Bản ký với Hàn Quốc “Hiệp
định khai thác chung thềm lục địa” lại chiếm thêm một phần lớn thềm lục địa của
Trung Quốc.
+ Ở Nam Hải (Biển Đông):
- Philippines:
bá chiếm hầu hết vùng biển quần đảo Nam Sa (Trường Sa), ngoài ra còn lấy danh
nghĩa vùng đặc quyền kinh tế chiếm luôn cả vùng biển từ đảo Hoàng Nham tới phần
biển phía Đông Đài Loan đáng lẽ thuộc về Trung Quốc. Tổng cộng Philippines đã
phi pháp đưa vào bản đồ của họ 420.000 km2 biển của Trung Quốc.
- Malaysia:
Năm 1979 tuyên bố phạm vi thềm lục địa, đưa đảo Anba và một phần Nam hải (Biển
Đông) vào bản đồ của họ, phi pháp chiếm của Trung Quốc 240.000 km2 biển.
- Brunei:
kéo dài thềm lục địa của họ tới đáy sâu Nam hải (Biển Đông), lấn vào đường biên
giới truyền thống (đường “lưỡi bò”) của Trung Quốc khoảng 3.000 km2.
- Indonesia:
vạch khu vực lãnh hải của họ vào sâu đường biên giới truyền thống (đường “lưỡi
bò”) của Trung Quốc khoảng 40.000 - 50.000 km2.
- Mỹ: chiếm
đảo Hoàng Nham của Trung Quốc ở phía Bắc Philippines, lập trường bắn cho hải
quân Mỹ ở đó.
- Việt Nam:
không những phi pháp chiếm đóng hơn 20 đảo của Trung Quốc ở Nam Sa (Trường Sa)
và hơn 400.000 km2 vùng biển phụ cận mà còn đưa ra yêu cầu hoang đường đòi chủ
quyền toàn bộ đối với quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và quần đảo Nam Sa (Trường Sa)
của Trung Quốc.
Hỡi ôi! Đọc những dòng tài liệu
trên của Nhà xuất bản Đại học Quốc phòng Trung Quốc có lẽ đứa trẻ chăn trâu ở bất
kỳ nước Châu Á nào (trừ Trung Quốc) cũng phải phì cười về giọng lưỡi “miệng nam
mô, bụng bồ dao găm” của các học giả quân đội Trung Quốc. Tuy nhiên, với chính
sách tuyên truyền nhồi sọ, kích động tư tưởng Đại Hán của nhà cầm quyền Trung Quốc,
không ít người dân Trung Quốc đã cả tin vào những luận điệu mị dân đó, họ tin rằng
chính phủ Trung Quốc quá hiền lành, hữu nghị đến nỗi bị tất cả các nước láng giềng
kể cả nước Brunei nhỏ xíu cũng “cướp đoạt” biển của Trung Quốc. Và lẽ tất
nhiên, nhà cầm quyền Trung Quốc đã và đang kích động họ “bằng mọi giá phải giành
lại quốc thổ của tổ quốc Trung Hoa”. Chắc chắn những thủy thủ, những sĩ quan và
binh lính trên giàn khoan HD 981 và trên các tàu chiến Trung Quốc đang hung
hăng khiêu khích các tàu chấp pháp Việt Nam trong vùng biển Việt Nam hẳn đã được
lãnh đạo họ nhồi sọ những luận điệu nham hiểm kể trên.
Tôi không biết các nước Đông Bắc
Á, Đông Nam Á và Mỹ có biết những tư liệu tuyên truyền kể trên của Trung Quốc
không? Nếu biết được họ sẽ suy nghĩ gì về tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc?
Tôi mong Vietnamnet sẽ cung cấp thông tin trên cho các bạn bè quốc tế biết. Đó
là cuốn sách “Diện đối Thái Bình Dương trầm
tư” nguyên bản tiếng Trung – NXB Đại học Quốc phòng Trung Quốc xuất bản năm
1989, trang 111-112, đang lưu giữ tại Thư
viện Học viện Quan hệ quốc tế Bộ Ngoại giao.
Với tham vọng vô đáy về biển đảo
của nhà cầm quyền Trung Quốc và với những luận điệu tuyên truyền nhồi sọ như vậy,
chúng ta có thể dự báo trước, sớm muộn Trung Quốc sẽ đưa dàn khoan và tàu chiến
lần lượt xâm phạm vùng biển của tất cả các nước láng giềng Đông Bắc Á và Đông
Nam Á mà Trung Quốc coi là có “tranh chấp” biển đảo với họ.
3/ Ông có thể cho biết trong chiến dịch xâm lấn
vùng biển của Việt Nam lần này, Trung Quốc sử dụng chiến thuật gì khác so với
các lần xâm lấn trước đây?
Trả lời: Khác chứ, khác xa các lần trước kể cả về
quy mô và thủ đoạn chính trị.
Trước
đây, mỗi lần xâm phạm gặm nhấm biển đảo của Việt Nam, cắt cáp tàu khảo sát của
Việt Nam, thậm chí bắn chìm tàu và giết chết 9 ngư dân Thanh Hóa đang đánh cá tại
vùng biển Việt Nam và bị Việt Nam phản đối, nhà cầm quyền Trung Quốc luôn giở
thủ đoạn “vì đại cục”, vì “thỏa thuận cấp cao”, vì “16 chữ”, vì “4 tốt”, “không
cho nước thứ ba biết”, “không quốc tế hóa vấn đề Biển Đông” để xoa dịu Việt Nam
ngồi vào đàm phán song phương với họ. Lần này, phía Trung Quốc không lặp lại thủ
đoạn đó mà ngang nhiên xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Họ đã tự làm
rơi chiếc mặt nạ lừa bịp, tự cắt bỏ “giây thần kinh xấu hổ” để công khai đối đầu
với Việt Nam và dư luận quốc tế.
Về quy
mô, lần này Trung Quốc nghênh ngang đưa dàn khoan khủng Hải Dương - 981và hàng
trăm tàu lớn kể cả tàu chiến vào sâu vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt
Nam, hung hăng bắn vòi rồng và đâm vào các tàu chấp pháp của Việt Nam, thậm chí
họ còn táng tận lương tâm đâm chìm một tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam, sẵn
sàng tạo cớ gây xung đột với Việt Nam.
Về
tuyên truyền, họ dùng thủ đoạn cùn như Chí Phèo vừa ăn cướp vừa la làng, lớn tiếng
vu cáo tàu thuyền Việt Nam quấy rối và đâm vào tàu của họ nên mới bị chìm. Những
ngày vừa qua các phóng viên nước ngoài như Nhật Bản, CNN... đã tới hiện trường
và trực tiếp chứng kiến, đưa tin về thủ đoạn vừa ăn cướp vừa la làng của Trung
Quốc.
4/ Theo suy
nghĩ của ông, sau chiến dịch xâm lấn này, Trung Quốc được gì, mất gì?
Trả lời: Đã có nhiều bài báo trong và ngoài nước viết về việc
này. Theo cá nhân tôi, sau hơn một tháng hung hăng xâm lấn và gây hấn đối với
chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, Trung Quốc đã bị mất quá nhiều so với những
cái họ đạt được.
Cái mà
họ đạt được là:
Thứ nhất: Trên thực địa, đã trơ tráo đưa được giàn khoan Hải
Dương - 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, công khai
thách thức dư luận quốc tế. Nói cách khác Trung Quốc đã thực hiện cuộc xâm lược
Việt Nam từ phía biển.
Thứ hai: Về dư luận, đã xì van được một phần mâu thuẫn nội bộ
ra bên ngoài biên giới quốc gia, kích động tư tưởng sô vanh nước lớn trong
trong nước họ.
Nhưng
Trung Quốc đã mất rất nhiều, nhiều lắm:
Thứ nhất: Chiến lược “trỗi dậy hòa bình” mà Trung Quốc dày
công chuẩn bị từ Đại hội 16 và ra rả tuyên truyền suốt chục năm qua nay đã bị
phá sản hoàn toàn. Trung Quốc đã hiện nguyên hình là một đế quốc hung hăng đầy
tham vọng về biên giới lãnh thổ, về chi phối thế giới bằng bất cứ giá nào. Trên
thế giới không còn ai tin vào những lời nói và việc làm của Trung Quốc.
Thứ hai: Với sự ngang ngược đưa dàn khoan vào sâu vùng biển
Việt Nam, Trung Quốc đã bị hầu hết các nước lớn và cộng đồng thế giới phản đối,
phê phán gay gắt, không hề có một quốc gia nào dù là bạn hữu thường nhận viện
trợ ưu ái của Trung Quốc lên tiếng bênh vực và ủng hộ Trung Quốc trong sự kiện
này. Một thực tế cay đắng đã bày ra trước mặt Trung Quốc, đó là: trên con đường
phát triển từ nước lớn thành cường quốc thế giới, Trung Quốc ngày càng bị cô lập,
không có đồng minh, cũng không có bạn bè. Tôi hoàn toàn đồng ý với bình luận của
ông Nguyễn Hùng Sơn – Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Biển Đông, Bộ Ngoại giao đăng
trên báo Straitstimes của Singapore
tháng 5/2014: “Nếu Trung Quốc để mất niềm
tin và tình bạn của ASEAN, Trung Quốc sẽ trở thành quốc gia cô độc nhất trong lịch
sử trên đường trở thành cường quốc, vì sẽ không có người bạn thực thụ nào trong
số tất cả các nước láng giềng”.
Thứ ba: Hàng chục năm nay Trung Quốc tốn rất nhiều tiền của
thực hiện chính sách “bẻ từng chiếc đũa” mua chuộc một số nước Đông Nam Á ủng hộ
Trung Quốc chỉ đàm phán song phương với từng nước ASEN có tranh chấp biển đảo với
Trung Quốc, không đưa vấn đề Biển Đông ra các diễn đàn khu vực và quốc tế.
Nhưng với các hành động hung hăng của Trung Quốc xâm phạm biển đảo của Philippines
và đưa dàn khoan Hải Dương - 981 vào sâu trong vùng biển Việt Nam đã khiến các
nước ASEAN xích lại gần nhau hơn, tạo được tiếng nói chung yêu cầu Trung Quốc
nghiêm chỉnh thực hiện Tuyên bố chung giữa ASEAN với Trung Quốc về Biển Đông
(DOC) và gây sức ép yêu cầu Trung Quốc phải sớm đàm phán với ASEAN để đạt được
Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Qua sự kiện này, tất cả các nước ASEAN có
tranh chấp biển đảo với Trung Quốc đều mong muốn quốc tế hóa vấn đề Biển Đông
và đều muốn Mỹ can dự nhiều hơn nữa để kiềm chế và ngăn chặn tham vọng bành trướng
của Trung Quốc ở Biển Đông.
Thứ tư: Trung Quốc đã mất đi tất cả những gì họ toan tính gây
dựng ở Việt Nam kể từ khi hai nước Việt – Trung bình thường hóa quan hệ (1991)
đến nay. Suốt 23 năm qua, các lớp lãnh đạo Trung Quốc dày công thực hiện “diễn
biến hòa bình kiểu Trung Quốc” tại Việt Nam, họ vuốt ve hòng ru ngủ Việt Nam bằng
tất cả các mỹ từ có được, nào là “16 chữ” (láng
giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”,
nào là “4 tốt” (láng giềng tốt, bạn bè tốt,
đồng chí tốt, đối tác tốt”, nào là “4 tương” (sơn thủy tương liên, văn hóa tương đồng, lý tưởng tương thông, vận mệnh
tương quan). Họ luôn dùng nhóm từ “vì đại cục”, “không ảnh hưởng đại cục” để
xoa dịu Việt Nam mỗi khi họ xâm lấn chủ quyền lãnh thổ Việt Nam.
Hơn một
tháng qua, nhà cầm quyền Trung Quốc đã tự đánh rơi chiếc mặt nạ mà họ đã đeo suốt
23 năm. Họ đã hiện nguyên hình từ người “đồng chí anh em” thành kẻ xâm lược
hung hăng hiếu chiến. Lòng tham vô đáy của đã làm lu mờ lý trí của những kẻ
đáng ra xứng đáng là những chính trị gia tầm cỡ thế giới.
Liệu đến
bao giờ nhà cầm quyền Trung Quốc mới lấy lại được một phần lòng tin của hơn 90
triệu nhân dân Việt Nam? Chắc chắn là không. Tôi rất tâm đắc với bình luận của
tác giả Kim Tuấn đăng trên báo điện tử “Dân trí”: “Người Việt vẫn dặn nhau “ăn ở
như bát nước đầy” và trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam luôn thực tâm giữ
gìn, thậm chí nâng niu bát nước tình nghĩa ấy. Nhưng đáng tiếc là bát nước đang
bị người láng giềng lớn hơn tìm cách hắt đi và như một câu nói khác, khi bát nước
đã đổ đi thì không thể lấy lại được nữa”.
5/ Cũng xin
hỏi ông, trong cuộc đấu tranh chủ quyền biển đảo với Trung Quốc lần này, Việt
Nam đã mất gì và được gì?
Trả lời:
Câu hỏi rất hay và tôi cũng xin trả lời không chỉ bằng suy nghĩ của tôi mà bằng
cả những điều tôi học được qua những buổi trao đổi sôi nổi với bạn bè những
ngày vừa qua.
Vậy
chúng ta mất gì? Theo tôi, chúng ta có một cái “mất” lớn, “mất” nhưng lại “mừng”.
Đó là:
Chúng ta đã “mất” đi một “đối tác chiến lược”,
mất đi một “đồng chí anh em” viển vông là
Trung Quốc. Trên thế giới này thử hỏi có “đối tác chiến lược” nào, người “đồng
chí anh em” nào lại nỡ lòng đi xâm lấn lãnh thổ của “đối tác chiến lược” và “đồng
chí anh em” của mình rồi lại lật mặt “ngậm máu phun người” tố cáo ngược “đồng
chí anh em” bằng những lời lẽ hằn học và đê tiện.
Chúng ta đã “mất” đi một “tình hữu nghị
viển vông” tồn tại suốt hơn 20 năm qua với Trung Quốc. Cái gọi là “tình hữu nghị”
gồm một mớ ngôn từ sáo rỗng do phía Trung Quốc nêu ra từ “16 chữ” đến “4 tốt”,
“4 tương”, “đại cục”... thực chất chỉ là những lời ru ngủ của Trung Quốc mà
thôi. Nói cách khác chúng ta đã mất đi “ảo tưởng”, mất đi một “niềm tin” về một
nước láng giềng XHCN lớn mạnh có thể sát cánh cùng chúng ta thực hiện lý tưởng
của chủ nghĩa Mac – Lenin.
Tôi rất tâm đắc với lời bình của
một học giả Việt Nam đăng trên mạng internet“chúng
ta phải cám ơn nhà cầm quyền Bắc Kinh đã sử dụng cơ bắp của họ húc vỡ cái “cục
to” (đại cục) được ngụy trang bằng “16 chữ” đen sì”.
Ngược lại, qua sự kiện 1/5/2014, chúng ta đã được rất
nhiều. Đó là:
Thứ nhất: Mỗi khi tổ quốc bị lâm nguy, dân tộc Việt Nam muôn
người như một lại đoàn kết tạo thành một khối thống nhất sẵn sàng nhấn chìm kè
thù xâm lược. Hơn 90 triệu trái tim dân chúng Việt Nam và kiều bào ngoài nước
đang hướng về Biển Đông. Hình ảnh hàng triệu người dân Việt Nam trong và ngoài
nước sát cánh biểu tình hô vang khẩu hiệu đòi Trung Quốc rút dàn khoan Hải
Dương - 981 ra khỏi vùng biển Việt Nam đang chứng minh điều đó.
Thứ hai: Trong cuộc đấu tranh pháp lý với Trung Quốc, tuy
Trung Quốc “to mồm”, “cãi chầy cãi cối” nhưng họ không giành được sự ủng hộ nào
từ dư luận quốc tế, kể cả Đài Loan có chung lập trường với Trung Quốc về Biển
Đông. Phát biểu càn quấy của viên tướng Trung Quốc Vương Quán Trung – Phó Tổng
tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc tại Diễn đàn Shangri la – Singapore ngày
1/6/2014 càng khiến dư luận quốc tế và khu vực phản cảm với Trung Quốc. Ngược lại, chúng ta đã giành được sự ủng hộ
tuyệt đối của dư luận từ các nước lớn Mỹ, Nhật, Tây Âu, Ấn Độ, Úc... và hầu hết
các nước ASEAN. Chưa bao giờ trên trang web của Nhà Trắng lại xuất hiện một kiến
nghị rất hay, đề nghị chính phủ Mỹ trừng phạt Trung Quốc vì đã đặt dàn khoan Hải
Dương - 981 ở thềm lục địa Việt Nam, tính đến cuối tháng 5/2014 đã thu hút hơn
130.000 chữ ký. Theo quy định của Mỹ, một kiến nghị đạt được 100.000 chữ ký thì
trong vòng 30 ngày sẽ được chính quyền Tổng thống Obama xem xét.
Tôi
đã so sánh và thấy rõ, dư luận quốc tế ủng hộ Việt Nam lần này mạnh hơn, quyết
liệt hơn nhiều so với sự kiện Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt
Nam năm 1974 và xâm chiếm đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam năm
1988.
Thứ ba: Cái được rất lớn mà nhân dân, sinh viên, trí thức,
báo chí Việt Nam lâu nay bị ràng buộc bởi “tình hữu nghị viển vông” mà không được
công khai phê phán và biểu tình phản đối các hành động của Trung Quốc xâm lấn chủ
quyền lãnh thổ Việt Nam. Kể từ sau sự kiện 1/5/2014, chúng ta đã hất bỏ chiếc
“vòng kim cô” vô lý đó, báo chí Việt Nam không còn dùng từ “tàu lạ”, “nước lạ”
mà công khai chỉ đích danh tàu Trung Quốc, nước Trung Quốc. Trên các báo chữ,
báo mạng, tạp chí liên tiếp xuất hiện các bài biết phê phán Trung Quốc xâm phạm
vùng biển Việt Nam, kiến nghị Chính phủ kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế. Trong
hội trường Quốc hội và khắp mọi nơi trên cả nước, đâu đâu cũng căm phẫn lên án
kẻ láng giềng “rộng vai hẹp bụng”. Hàng vạn học sinh trung học và phụ huynh học
sinh rất phấn chấn khi thấy “dàn khoan Hải Dương - 981 của Trung Quốc” xuất hiện
trong đề thi môn Ngữ văn và môn Sử năm nay. Cá nhân tôi rất ủng hộ ý kiến của Bộ
trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường phát biểu tại Quốc hội ngày 28/5/2014 về việc cần
sớm có Luật biểu tình: “có những cuộc biểu
tình không phù hợp, nhưng cũng có nhiều cuộc biểu tình phù hợp. Việc sớm đưa
vào chương trình xây dựng Luật Biểu tình để có hành lang pháp lý, biểu thị ý kiến
của người dân là điều hoàn toàn phù hợp”.
Thứ tư: “Trong họa có phúc”, sự kiện 1/5/2014 do
Trung Quốc ngang ngược gây ra đặt Việt Nam trước nguy cơ chủ quyền lãnh thổ bị
xâm phạm, công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh bị ảnh hưởng. Tuy nhiên,
việc lật mặt tráo trở của Trung Quốc khiến chúng ta có được cơ hội hiếm có để
điều chỉnh chính sách ứng phó, giảm lệ thuộc vàoTrung Quốc trước mắt và tương
lai lâu dài.
Những ngày qua, phát biểu của
lãnh đạo các cấp, các ngành tại các diễn đàn trong và ngoài nước cho thấy, cùng
với việc sẵn sàng khởi kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế và chuẩn bị các phương
án bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, chúng ta đã tính đến các giải pháp kinh tế giảm lệ
thuộc vào thị trường Trung Quốc. Hẳn các bạn còn nhớ, sau khi Liên Xô sụp đổ
năm 1992, không ít người cho rằng Việt Nam cũng suy sụp theo vì Việt Nam bị mất
đi một thị trường lớn Liên Xô Đông Âu to lớn. Nhưng ngược lại, người Việt Nam đã
tìm ra lối đi riêng cho mình để tiếp tục phát triển lớn mạnh.
6/ Ông suy
nghĩ thế nào trước việc Trung Quốc rút hàng loạt người Trung Quốc đang làm việc
tại Việt Nam? Nếu Trung Quốc giảm hoặc ngừng các hoạt động hợp tác kinh tế,
thương mại, đầu tư với Việt Nam sẽ ảnh hưởng thế nào đến phát triển kinh tế của
Việt Nam?
Trả lời: Ôn lại lịch sử
một chút, năm 1978 Trung Quốc cũng dựng ra màn kịch “đón nạn kiều” về nước rồi
mở chiến dịch vu cáo Việt Nam “bài Hoa” trước khi phát động cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam tháng 2/1979. Lần này,Trung Quốc đã diễn lại kịch bản cũ, đưa
tàu sang đón một số công nhân đang làm việc tại Hà Tĩnh và một vài khu công
nghiệp khác ở Việt Nam rồi lớn tiếng vu cáo Việt Nam trên quốc tế là “Việt Nam
bài Hoa, khiêu khích Trung Quốc”, “môi trường đầu tư ở Việt Nam rất xấu”…
Tôi cho
rằng, lần này Trung Quốc chỉ “rút” một số công nhân cơ bắp nhập cảnh trái phép
vào Việt Nam làm việc trong các dự án đầu tư của Đài Loan, Hồng Kông… để lấy cớ
vu cáo bôi nhọ Việt Nam mà thôi. Riêng những “công dân Trung Quốc” đang “bám rễ”
làm việc ở các vùng kinh tế chiến lược của Việt Nam như Tây Nguyên, vùng giáp
ranh với Lào, Campuchia… thì dù chúng ta có thực sự xua đuổi, họ cũng không muốn
về đâu. Đây là một hiểm họa lâu dài đối với an ninh quốc gia của Việt Nam.
Về câu
hỏi thứ hai, tôi thiết nghĩ mấy ngày qua các đại biểu quốc hội ta đã bàn thảo
nhiều về các phương án ứng phó trong tình huống Trung Quốc trở mặt đóng cửa khẩu
biên giới, giảm và ngừng các hoạt động hợp tác kinh tế, đầu tư tại Việt Nam.
Tôi chỉ lưu ý các bạn rằng:
+ Trong
buôn bán với Trung Quốc, 2/3 số lượng hàng hóa buôn bán là tiểu ngạch (mậu dịch
biên giới), chỉ có 1/3 là chính ngạch. Xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc
chỉ chiếm 30 % tổng xuất khẩu với thế giới, trong đó chủ yếu là hàng nông sản,
nhưng cũng chỉ chiếm khoảng 10% hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam với thế giới.
Những mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc như thiết bị máy móc, nguyên vật
liệu may mặc… thì đều có thể nhập từ các thị trường khác. Đồng thời, trong quan
hệ thương mại, Trung Quốc luôn xuất siêu sang Việt Nam, vì vậy nếu Trung Quốc
đóng cửa khẩu biên giới, bên thiệt hại hơn không phải là bên nhập siêu.
+ Về đầu
tư trực tiếp, Trung Quốc chỉ là đối tác đầu tư rất nhỏ tại Việt Nam. Đầu tư FDI
của Trung Quốc tại Việt Nam chỉ chiếm 3% tổng số vốn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài tại Việt Nam. Nếu như thiếu 3% FDI đó, kinh tế Việt Nam vẫn phát triển
bình thường.
Theo số
liệu của Bộ Công thương tháng 4/2014, trong 10 dự án lớn của nhà thầu Trung Quốc
tại Việt Nam (đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông, Dự án cao tốc Hà Nội – Hải
Phòng, Dự án cao tốc Hà Nội – Lào cai, Dự an Boxit Tây Nguyên, Nhà máy gang
thép Lào Cai, Dự án nhiệt điện Duyên Hải 1, Nhà máy nhiệt điện Mông Dương 2,
Nhà máy thủy điện Sông Bung 4, Khu căn hộ cao cấp Golden Westlake Hà Nội, Nhà
máy dệt may tại khu công nghiệp Lai Vu) và một số dự án về năng lượng, hạ tầng thì tiến độ nhiều dự án chậm trễ, đội vốn,
gây tranh cãi. Nếu như Trung Quốc ngừng các dự án thầu này, lẽ đương nhiên hai
bên đều thiệt hại, nhưng họ sẽ chịu thiệt hại trước tiên.
Tôi cũng xin cung cấp thêm một
thông tin cho các bạn biết, Trung Quốc là nước đầu tư trực tiếp lớn nhất tại
Myanmar với 14,2 tỉ USD, chiếm 30,6% tổng số vốn FDI nước ngoài tại Myanmar,
nhưng cuối năm 2011 để bảo vệ môi trường và an ninh quốc gia, chính phủ Myanmar
đã tuyên bố hủy bỏ dự án đập thủy điện khổng lồ Myitsone
trên sông Irrawaddy
thuộc Bang Kachin giáp biên giới Trung Quốc trị giá 3,6 tỉ USD do Trung Quốc là chủ đầu tư và đã làm xong 1/3 công trình. Phía Trung Quốc tuy phản ứng
gay gắt trước quyết định này của chính phủ Myanmar, nhưng vẫn phải “ngậm bồ hòn
làm ngọt” tiếp tục đầu tư vào các dự án khác.
7/ Ông nghĩ thế nào về phản ứng của các nước lớn và dư luận
quốc tế trước sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương - 981 trong thềm lục
địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam?
Trả lời: Như tôi đã nói ở trên, trong cuộc đấu tranh pháp lý với
Trung Quốc lần này, chúng ta đã giành được sự ủng hộ mạnh mẽ từ hầu hết các nước
lớn, ASEAN và dư luận quốc tế không chỉ tại các diễn đàn kinh tế thế giới về
Đông Á ở Philippines, diễn đàn an ninh Shangri la ở Singapore… và ngay tại thủ
đô nhiều nước trên thế giới. Ngược lại, không một quốc gia nào lên tiếng ủng hộ
và bênh vực Trung Quốc.
Đặc biệt, điều xảy ra ngoài dự đoán của tôi là, lãnh đạo
các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản, Indonesia kể từ Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng
Quốc phòng tới các Nghị sĩ, học giả... đều lớn tiếng phê phán Trung Quốc và đồng
tình với thiện chí của Việt Nam.
Tuy nhiên, tôi băn khoan một điều là các nước XHCN bạn bè
truyền thống của Việt Nam kể cả bạn thân sát nách và bạn thân cách nửa vòng
Trái đất, các đảng cộng sản trên thế giới trước đây luôn sát cánh với Việt Nam
lần này đều im hơi lặng tiếng? Phải chăng rượu Mao Đài đã khiến họ say rồi?
8/ Là người từng công tác nhiều năm tại Trung Quốc và Đài
Loan, ông nghĩ thế nào về giới lãnh đạo Trung Quốc và nhân dân Trung Quốc xung
quanh vấn đề Biển Đông?
Trả lời: Câu hỏi rất lớn, tôi xin khái quát trả lời như sau:
Từ đầu thế kỷ XX đến nay, có 2 đảng lớn thay nhau cầm quyền
ở Trung Quốc là Quốc dân đảng và Đảng cộng sản. Mẫu số chung của các lãnh tụ 2
đảng này từ Tưởng Giới Thạch đến Mao Trạch Đông và các thế hệ tiếp theo là đều
nuôi “giấc mộng Trung Hoa”, mong muốn đưa Trung Quốc sớm trở thành cường quốc
hàng đầu thế giới, hất ảnh hưởng của Mỹ ra khỏi vùng Hoa Đông, Biển Đông đến tận
Guam, chia sẻ quyền lực với Mỹ trên Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương. Để thực hiện
giấc mộng đó, bước đầu tiên không hẹn mà gặp họ đều muốn độc chiếm Biển Đông.
Xin các bạn nhớ cho, năm 1947 chính quyền Quốc dân đảng của
Tưởng Giới Thạch là kẻ khởi xướng đầu
tiên vẽ bản đồ Trung Hoa có đường biên
giới “lưỡi bò” gồm 11 đoạn đứt khúc bao bọc gần hết Biển Đông và không đưa bất
kỳ cơ sở pháp lý nào. Kế thừa “di sản” đó, từ đầu thập kỷ 50 thế kỷ XX, CHND
Trung Hoa của Mao Trạch Đông đã cải biên đường biên giới “lưỡi bò” từ 11 đoạn
thành 10 đoạn, sau chuyển thành 9 đoạn như hiện nay và cũng không đưa ra bất kỳ
cơ sở pháp lý nào.
Đại đa số nhân dân Trung Quốc là nông dân lao động yêu chuộng
hòa bình, trước năm 1949 họ từng bị lôi cuốn vào cuộc nội chiến Quốc - Cộng
tương tàn hàng chục năm và tiếp đó là các cuộc đấu đá chính trị bè phái trong nội
bộ Đảng cộng sản Trung Quốc điển hình là 10 năm Cách mạng văn hóa 1966 -1976, sự
kiện Thiên An Môn tháng 6/1976 và sự kiện Thiên An Môn tháng 5/1989.
Như tôi đã nói ở phần trên, mỗi khi Trung Quốc gặp khó khăn
trong nội bộ, họ đều sử dụng chiến thuật “đổ lửa” ra ngoài biên giới quốc gia,
kích động tư tưởng Đại Hán, hướng mâu thuẫn nội bộ sang các nước láng giềng như
Ấn Độ, Liên Xô, Nhật Bản, Việt Nam... Không ít người dân Trung Quốc thật thà,
thiếu thông tin đã bị mắc lừa trước thủ đoạn mị dân của lãnh đạo họ, trở thành
vật hy sinh trong các cuộc chiến tranh biên giới với các nước láng giềng.
Tuy nhiên, nhiều người dân TQ thông minh, trực tính nhất là
tầng lớp trí thức không dễ bị lừa. Không ít người đã thẳng thắn phát biểu chính
kiến không đồng tình với tuyên truyền phi lý của chính phủ Trung Quốc về vấn đề
Biển Đông. Tôi xin trích dẫn 3 ví dụ tiêu biểu:
- Ngày 10/5/2014, Học giả Lý Lệnh Hoa, nhà
nghiên cứu Trung Quốc về biển và luật biển đăng bài viết trên blog cá nhân cho
biết, phóng viên của Hoàn cầu Thời báo - phụ san của báo đảng Trung
Quốc, gọi điện phỏng vấn ông về cách nhìn nhận tình hình ở khu vực quần đảo
Hoàng Sa trên Biển Đông hiện nay. Ông Lý Lệnh Hoa đã trả lời thẳng thẳn
quan điểm của mình với phóng viên: "Trung
Quốc là quốc gia tham gia ký kết Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS)
năm 1982. Do đó, Trung Quốc cần tuân thủ theo điều 74 và điều 83 của Công ước,
cần tôn trọng chủ trương thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của
các quốc gia ven biển". Ông Lý còn khẳng định rằng đây là quan điểm
xuyên suốt của ông, được trình bày ở nhiều bài viết là diễn đàn khác
nhau, hy vọng phóng viên có thể xem và tiếp tục trao đổi sâu hơn về quan
điểm này.
Học giả Lý Lệnh Hoa – 68 tuổi, cựu
nghiên cứu viên Trung tâm nghiên cứu Hải
dương Hải dương Quốc gia Trung Quốc. Ảnh: Blog.sina.
- Sau khi nghe phát biểu hôm
27/5/2014 của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương biện bạch về
việc một tàu cá Việt Nam bị chìm sau khi "quấy rối và đâm vào một tàu cá
Trung Quốc", ông Duan Wanjin -
một luật sư Trung Quốc phát biểu trên mạng intenet đã chỉ trích Chính phủ
Trung Quốc “hành động không phù hợp với
danh xưng "cường quốc". "Mọi tranh chấp nên được đưa ra bàn bạc,
không thể đi nói xấu nước khác như vậy", Ông Duan nhận xét: “quốc gia nào chủ trương thu hẹp quan hệ ngoại
giao như Trung Quốc hiện nay sẽ khó mà trỗi dậy”."Bộ Ngoại giao Trung Quốc
hiện giờ đầy những chú hề, những kẻ muốn lấy lòng các vị lãnh đạo. Chẳng còn
chút tinh thần Nho giáo nào sót lại, thay vào đó là thói côn đồ. Đường lối phát
triển của quốc gia ngày nay thật đáng buồn".
- Phó giáo sư Vi Dân - chuyên
gia Đông Nam Á thuộc Đại học Bắc Kinh, cũng phát biểu trên mạng internet đầu
tháng 5/2014: “Chính quyền Trung Quốc sẽ dần bị mất uy tín nếu tiếp tục có thái
độ hiếu chiến trên Biển Đông. Nếu không giải quyết sớm, thì bất kể lời giải
thích nào mà chính phủ Trung Quốc đưa ra cũng không còn ý nghĩa gì nữa. Rõ ràng
là chúng ta ức hiếp phía Việt Nam”.
9/ Theo ông, Việt Nam có
nên kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế không? Có nên chấp nhận đề nghị của Trung Quốc
“gác tranh chấp, cùng khai thác” không?
Trả lời: Các bạn đã biết, suốt tháng qua nhiều phát biểu của
lãnh đạo cấp cao, các Bộ,
Ngành nhất là các đại biểu Quốc hội đều phê phán gay gắt
hành động xâm lược của Trung Quốc đối với nước ta, đồng thời đề xuất phương án
kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế như Philippines đã làm. Tôi cho rằng, kẻ cướp
đã hung hăng vào đến sân nhà ta, ta còn cân nhắc “nên hay không nên” gì nữa, đã
đến lúc chúng ta PHẢI kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế, dùng pháp lý quốc tế
khẳng định và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam.
Ngoài ra, trong các Bộ Luật về biển được quốc
tế sử dụng, Bộ Luật cổ La Mã quy định, trong tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa
các bên liên quan, nếu trong vòng 50 năm một trong hai bên tranh chấp không lên
tiếng khởi kiện bên kia, thì lẽ đương nhiên chủ quyền sẽ thuộc về bên kia.
Trung Quốc đã chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam 40 năm rồi. Chúng ta
càng để lâu không kiện Trung Quốc sẽ càng bất lợi.
Tin tức
cho hay, ngày 4/6/2014, Tòa án trọng tài quốc tế ở The Hague, Hà Lan thông báo
sẽ lấy ngày 15/12 là ngày Trung Quốc nộp bản phản biện đáp lại văn bản dài gần
4.000 trang của Philippines kiện Trung Quốc hồi tháng 3/2013. Cùng ngày, người
phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã ngang ngược khẳng định: “Lập trường của Trung Quốc không có gì thay
đổi, Bắc Kinh không chấp nhận và không tham gia trong tố tụng trọng tài có liên
quan tới Philippines”. Việc Trung Quốc không dám tranh luận trước tòa chỉ
càng làm cho Trung Quốc bị cô lập trên quốc tế, đồng thời khiến vụ kiện của
Philippines nhanh chóng được Tòa án quốc tế hoàn tất và sẽ sớm đưa ra phán quyết
cuối cùng. Nếu phán quyết này có lợi cho phía Philippines, đây sẽ là một đòn
ngoại giao giáng mạnh vào Trung Quốc, và sẽ là một chiến thắng vang dội cho
Philippines về pháp lý.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang “Chúng ta không muốn
xung đột, yêu chuộng hòa bình, sẵn sàng đàm phán, giải quyết vấn đề thông qua
kênh ngoại giao. Thế nhưng, nếu ngoại giao không được thì phải đấu tranh bằng
pháp lý, thông qua tòa án quốc tế”
Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc:
"Việt Nam đang củng cố hồ sơ khởi kiện Trung Quốc".
Về đề
nghị của Trung Quốc “gác tranh chấp, cùng khai thác” ở Biển Đông, thay cho trả
lời, tôi xin cung cấp thông tin cho các bạn rõ:
Từ năm
1992, Trung Quốc công bố “phương châm 16 chữ” của họ về khai thác chung với các
nước láng giềng là “chủ quyền thuộc ngã,
các trí tranh nghị, cộng đồng khai phát, lợi ích phân hưởng” (chủ quyền thuộc
tôi, gác lại tranh cãi, cùng nhau khai thác, chia xẻ lợi ích). Sau đó họ viết
ngắn lại là “các trí tranh nghị, cộng đồng khai phát” nhưng dưới tiền đề “chủ
quyền thuộc ngã”.
Nực cười
thay, đã là “chủ quyền thuộc ngã” thì còn khai thác chung làm gì nữa? Trung Quốc
đã đem công thức này mời chào Việt Nam và các nước Đông Nam Á có tranh chấp biển
đảo với Trung Quốc, nhưng cho tới nay chưa có quốc gia nào dám nhận lời “cùng
khai thác” tài nguyên biển với Trung Quốc ở vùng tranh chấp mà phải chấp nhập
tiền đề “chủ quyền thuộc ngã”? Thực chất là Trung Quốc muốn “gác tranh chấp,
cùng khai thác” tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và lãnh hải của các nước
Đông Nam Á mà theo cách nghĩ của Trung Quốc đó là vùng tranh chấp vì nằm trong
“đường lưỡi bò” do họ tự vẽ ra.
Ngoài
ra, thực tiễn trên thế giới cũng cho thấy, các dự án “khai thác chung” tài
nguyên biển giữa một số quốc gia đã bộc lộ những hệ quả đáng tiếc, thua thiệt cả
về chủ quyền cả về kinh tế cho như những quốc gia nhỏ bé, ít vốn hơn bởi lẽ “thỏa
thuận tạm thời” sẽ thành “thỏa thuận vĩnh viễn” và “lợi thế” bao giờ cũng thuộc
về kẻ mạnh hơn.
10/ Ông đánh giá thế nào về
quan hệ Việt Nam – Trung Quốc sau sự kiện tháng 1/5/2014?
Trả lời: Tôi cho rằng sau sự kiện
1/5/2014 lần này, dù muốn hay không quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc tất yếu
đã chuyển sang một giai đoạn mới khác hẳn 23 năm trước kể từ khi hai nước bình
thường hóa quan hệ. Vì sao vậy? Vì Trung Quốc đã đơn phương vứt bỏ “16 chữ”, “4
tốt”, “4 tương”, đã lộ nguyên hình là nước lớn láng giềng “rộng vai” nhưng “hẹp
bụng”, hung hăng xâm lấn chủ quyền
lãnh thổ của nước láng giềng “đồng chí anh em”.
Chúng ta đã “ngậm quả bồ hòn hữu
nghị” với Trung Quốc quá lâu. Đã đến lúc chúng ta phải “nhè” ra và “nhổ” đi quả
bồ hòn đắng chát đó. Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 22/5/2014 tại
Philippines đã làm nức lòng đồng bào cả nước: “Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi
vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Việt Nam luôn mong
muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều
thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào
đó".
Tôi
tán đồng ý kiến của ông Đặng Ngọc Tùng
Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tại Quốc hội ngày 2/6/2014 : “Phát biểu của Thủ tướng là lời nhắc nhở ai
đó còn mơ hồ về tình hữu nghị, về “16 chữ
vàng”, về “4 tốt” với người láng giềng “hẹp bụng”.
Đã đến lúc để Việt Nam dứt
khoát đoạn tuyệt với “tình hữu nghị viển vông” để xác định khuôn khổ quan hệ mới
với Trung Quốc trên cơ sở chung sống hòa bình, bình đẳng, hai bên cùng có lợi,
giải quyết các tranh chấp với Trung Quốc bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở Luật
pháp quốc tế.
11/ Xin hỏi ông câu cuối
cùng, nếu Trung Quốc vẫn hung hăng tiếp tục lấn tới xâm phạm vùng biển Việt
Nam, cố tình gây hấn dẫn đến xung đột vũ lực với Việt Nam. Tình hình khi đó sẽ
ra sao?
Trả lời: Xin các bạn cùng tôi giở lại các trang lịch sử đấu tranh
chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Trong lịch sử gần 3000 năm của dân tộc Việt Nam, các triều
đại Trung Quốc đã đem quân xâm lược Việt Nam 20 lần (nhà Ân 1 lần, nhà Tần 1 lần, nhà Hán 4 lần, nhà Lương 3 lần, nhà Tống
2 lần, nhà Nguyên 3 lần, nhà Minh 1 lần, nhà Thanh 1 lần, CHND Trung Hoa 4 lần),
tức với tần suất trung bình 150 năm một lần xâm lược. Chắc chắn trên thế giới
chưa từng có một quốc gia nào đem quân đi xâm lược nước láng giềng của mình nhiều
lần đến như vậy.
Trong
tổng số 20 cuộc xâm lược đó, chỉ riêng từ khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
ra đời năm 1949 đến nay, trong thời gian 65 năm qua CHND Trung Hoa đã xâm lược
VN đến 4 lần (năm 1956 chiếm phía nửa
phía Đông quần đảo Hoàng Sa, năm 1974 chiếm nửa phía Tây quần đảo Hoàng Sa, năm
1979 xâm lược 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, năm 1988 chiếm đảo Gạc Ma quần
đảo Trường Sa, chưa kể đến việc Trung Quốc
thông qua Khmer Đỏ gây ra chiến tranh biên giới Tây Nam – 1978, và sự kiện
1/5/2014). Như vậy, dưới chính thể Cộng
hòa nhân dân, cả hai nước đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo, tần suất xâm lược của
Trung Quốc đối với Việt Nam là trung bình 15 năm một lần xâm lược, dày gấp 10 lần
so với tần xuất xâm lược Việt Nam từ các triều đại phong kiến Trung Quốc.
Lãnh
đạọ các cấp Việt Nam đã nói rõ, Việt Nam yêu cầu Trung Quốc phải rút dàn khoan
Hải Dương - 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, giải
quyết mọi vấn đề tồn tại giữa hai nước bằng biện pháp hòa bình. Nhưng mọi sự
kiên nhẫn đều có giới hạn, nếu phía Trung Quốc vẫn hung hăng, bất chấp pháp lý
quốc tế tiếp tục xâm phạm toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, đẩy Việt
Nam vào thế cùng, thì lẽ tất yếu dân tộc Việt Nam sẽ “ai có súng dùng súng, ai
có gươm dùng gươm” đoàn kết đứng lên bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc như Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng kêu gọi hơn nửa thế kỷ trước.
Ông
cha ta xưa, bằng sức mạnh dân tộc, đã từng một mình, đơn độc chống lại bọn
phong kiến phương Bắc xâm lược đông mạnh, hết triều đại này đến triều đại khác
để lại những chiến công hiển hách và các giá trị to lớn khác, thì ngày nay, sức
mạnh dân tộc đó, kết với sức mạnh thời đại, sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, Việt
Nam không ngán ngại bất cứ kẻ thù nào.
Trước khi kết
thúc bài trả lời phỏng vấn này, tôi xin gửi các bạn cùng đọc bài văn yêu nước viết theo thể “Phú” của nhà văn
Kha Tiệm Ly đang làm nức lòng nhiều bạn đọc cả nước.
Xin cám ơn Vietnamnet!
Đối diện quân thù Phú
Bắc biên địa, hận
cũ chẳng nguôi ngoai
Đông lãnh hải,
lại giở trò lếu láo.
Kéo dàn khoan ỷ
thế nghênh ngang,
Bày thế trận vẫn thói quen hung bạo!
Than ôi!
Đau lòng biết mấy, giặc nuốt rồi mấy dặm Nam
Quan,
Ôm hận bao năm, thù chiếm trọn Hoàng Sa hải
đảo!
Ngông cuồng vẽ đường chín khúc, không kiêng
công ước rạch ròi,
Nghênh ngang kéo cả dàn khoan, để lộ mặt mày
ngổ ngáo.
Ỷ mạnh kéo tàu to tàu nhỏ, hiếp ngư thuyền
không súng không gươm ,
Thẳng tay dùng cây ngắn cây dài, nện ngư dân
chẳng giày chẳng áo!
Thảm sát Đồng Chúc, phụ nữ mang thai mà
chúng giết như giết lợn giết bò,
Đánh chiếm Gạc Ma, chiến sĩ tay không mà
chúng bắn như bắn cò bắn sáo!
Niềm uất hận chất kín gầm trời,
Biển tang thương đỏ tươi màu máu!
Cho vợ khóc chồng lệ xót lâm li,
Để mẹ nhớ con canh dài áo não!
Câu “Bốn tốt” đã thành lời lẽ yêu ma,
“Mười sáu chữ vàng” nay lòi tim gan chồn
cáo!
Thế mới hay,
Vì mộng bành trướng mà mắt cú láo liên,
Bởi thói bá quyền nên lòng lang trơ tráo.
“Không
có đối thủ nào trọn kiếp thù hằn,
Chẳng
có hữu bằng nào trăm năm vĩnh hảo”
Mất lòng dân, thì dù tấc đất khó gìn,
Được lòng dân, sợ chi quân thù trở giáo!
Từ xưa:
“Hiền
tài là nguyên khí quốc gia”
“Giang
sơn mất thì nhà tan cửa nát”
Cho nên:
Chớ xui hào kiệt lên rừng đốt củi làm than,
Đừng đẩy sĩ phu ra đường bán rong hát dạo!
Nếu lúc bình thời mãi dùng củi mục làm quan,
Thì cơn quốc loạn lấy ai bảo toàn cương thổ?
Lũ vô tài vô đức, chỉ biến nhân dân thành
chó thành dê,
Người đại trí đại nhân mới giúp giang sơn
hóa rồng hóa hổ.
Hỡi quân thù!
Mi xua tàu chiến, chồn ló mặt chồn,
Mi kéo dàn khoan, cáo lòi đuôi cáo!
Miệng lằn lưỡi mối khác gì trôn đĩ thối tha,
Khẩu Phât tâm xà nên ló mặt mo vênh váo!
Dân ta lòng gang dạ sắt, chớ bày trò nhát khỉ
rung cây,
Bọn mi mắt chột mắt mù, chớ lấy tơ trói hùm
trói báo!
Giang sơn li loạn, trăm sông ta liền hóa Như
Nguyệt, Bạch Đằng,
Tổ quốc lâm nguy, triệu dân ta đều trở thành
Ngô Quyền, Hưng Đạo.
Trải bao binh lửa, Cửu Long Giang luôn chín
khúc hào hùng,
Qua bấy phong ba, Hoàng Liên Sơn vẫn nghìn
mây vời vợi.
Thử lửa đi! Chiến sĩ ta đạn đã lên nòng,
Xung phong đi! Nhân dân ta gươm chờ tuốt vỏ!
Thắng trăm trận cũ, Đại Cồ giữ nước nghìn
năm,
Thắng một trận nầy, Việt Nam lưu danh vạn
thuờ.
Anh em ơi!
Giặc đã đến rồi!
Giặc đã đến rồi!
Ta nhân nhượng cũng có mức có chừng
Chúng hung hăng ngày tự tung tự tác.
Thương giống nòi, chân mạnh bước hiên ngang,
Vì tổ quốc, máu sôi lòng bất khuất.
“Đánh
cho để răng đen,
Đánh
cho luôn dài tóc”.
Đống Đa
gươm khua chan chát, máu thù dơ bước chân voi,
Đằng Giang sóng cuộn ầm ầm, xác giặc còn
tanh mũi cọc.
Diên Hồng vang rền “Sát Thát”, quyết bảo
toàn hải phận, biên cương,
Như Nguyệt sang sảng lời thơ, không để mất
ngọn rau, tấc đất.
Lao thân đạn lửa, mới biết ai dũng ai hèn,
Đối diện quân thù, mới rõ ai vinh ai nhục!
Dù máu đỏ loang lòng biển, quyết bảo toàn hạt
cát quê hương,
Dù xương trắng chất đầu non, không để mất bờ cây tổ quốc.
Hỡi anh em!
Vung tay lên, trăm triệu chung lòng!
Trước giặc thù, một còn một mất!
Kha Tiệm Ly
.
bài viết rất hay . phân tích sâu và khá kỹ .
Trả lờiXóatuy nhiên vì sao giàn khoan lại đặt vào việt nam mà không phải chỗ khác thì chưa thấy tác giả đề cập
có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân quan trọng nhất theo tôi đó là vì một việt nam yếu .